Sự phẫn nộ

Sunday, May 18, 201412:00 AM(View: 118050)

Sự phẫn nộ


(Bài giảng trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)


TT Giác Đẳng: Có thể nói rằng ít khi nào chúng ta nhìn thấy một sự việc rộng ở trên căn đế phiền não. Khi mình bực bội điều gì mình chỉ nhắm vào đối tượng A, đối tượng B, ai làm mình bực. Và nếu ai làm cho mình bực thì mình qui trách cho người đó, kể như xong chuyện. Nhưng, Đức Phật thì Ngài nói đến những trạng thái tham sân. Trạng thái sân đến từ nhiều căn đế, mà chúng ta rất khó có thể tưởng tượng, nếu chúng ta không phải là người hiểu Phật Pháp.

 Thật ra thì những phiền não trong lòng chúng ta không phải nó tự phát mà nó do nhân do duyên và thông thường những phiền não này nó cấu kết với nhau. Cái hiện tượng mình thường rất thích điều này và tự nhiên nó làm mình không thích điều khác, đó là điều đương nhiên và rất thường thấy. Ví dụ như, chúng ta xem một cuốn phim, chúng ta hết sức tán thưởng một nhân vật, thì trong sự tán thưởng một nhân vật ở trong cuốn phim đó, chúng ta lại đem tâm bực ghét, không ưa thích những người làm ngược lại, đối nghịch lại người đó. Chúng ta càng thương người nào nhiều, chúng ta lại càng ghét người khác nhiều, ít khi nào cái thương và cái ghét hiện diện như là một chiều và thông thường nó là một mặt của đồng tiền hai mặt.

 Ngài Budditasa là một trong những vị danh Tăng cận đại của Phật Giáo tại Thái Lan, Ngài đả nói chuyện rất nhiều về trường hợp về một con chó hay cắn, nó tương tự như là hạnh phúc trong đời sống của mình, có những thứ mình nghĩ rằng nó hoàn toàn đáng hoan hỷ, đáng thỏa thích. Nhưng ngược lại, chúng ta quên rằng nó có những dị ứng những biến chứng mà những biến chứng này đã khiến chúng ta căm ghét đối với những thứ khác. Và cả hai trường hợp đều đưa chúng ta vào tình trạng là quá thích thứ này và quá ghét thứ khác.

 Theo Đạo Phật thì mỗi chúng ta có sợi dây xích, những cái phiền nó kềng chúng ta lại, Đạo Phật gọi là những kiết sử. Chúng ta cứ thử hỏi như thế này, có những lần chúng ta rất lo sợ về một điểm gì đó nó trĩu nặng trên vai của mình, và mình muốn vuợt ra khỏi điều đó mà chúng ta không vượt được. Hoặc giả, bỗng nhiên nhất thời có ai nói một câu gì mà làm cho chúng ta tự ái, thì chúng ta sẽ trở về trăn trở trằn trọc với câu nói đó. Thì quả thật lúc đó chúng ta thấy rằng có một sợ dây vô hình nó cột chúng ta lại. Cái kiết sử hay thằng thúc mà Đức Phật Ngài đề cập đến, là những sợi dây kiết sử đến từ nội tâm của chúng ta, và sân phẫn nộ nó là một trong những cái gây ra kiết sử đó. Và hiện tướng của nó ở bên ngoài thì chúng ta thấy rằng ở đó có kiêu mạn, ở đó có phẫn nộ ,con người cảm thấy rằng mình như thế này, mình như thế kia ,và mình phải được như thế này, mình phải được như thế khác, và mình là ai, mình thường tự nhận mình qua một nhãn hiệu nào và mình khổ với nhãn hiệu đó.


blank

Hình minh họa.

 Con người ở trong xã hội ngày hôm nay vẫn thường cảm thấy tự hào khi mình có một học vị, hay là có một địa vị , mình thuộc giai cấp trung lưu, mình thuộc giai cấp thượng lưu, mình là vị trụ trì , mình là một người nhân sĩ trong xã hội, mình là một nhà lãnh đạo, mình là thế này thế kia v.v… đó chính là cái niềm hãnh diện. Nhưng mà chính niềm hãnh diện đó cũng là thước đo cho sự phẫn nộ của mình. Khi chúng ta có quan niệm mà càng cao trọng về bản thân của mình, khi mà mình bị xúc phạm thì cái quan niệm cao trọng đó trở thành một cái tầng cao, một cái giai tầng cao của sự phẫn nộ, vì nếu chúng ta là một con người bình thường thì chúng ta đã không phẫn nộ.

 Ở trong đời sống chúng ta tự thấy mình quan trọng. Bỗng nhiên mình bị người khác chỉ trích mình. Chúng ta càng đánh giá mình càng cao thì tự mình càng chuốt lấy cái khổ nhiều, mình nghĩ rằng mình phải là thế này mình phải là một như thế khác, thì khi mình không gặp những trái ý nghịch lòng thì mình cảm thấy rất là buồn, buồn nhiều lắm

 Đức Phật đã dạy do mình chấp trước vào danh sắc. Danh sắc ở đây được nói là thân tâm, và khi Đạo Phật nói về danh sắc về thân tâm Đạo Phật chỉ đến là chúng ta có thể chấp vào hình tướng của mình và có thể chấp vào những cái vui cái buồn ở trong lòng mình, đây là ta, đây là của ta, đây là tự ngã của ta, và ở đâu có sự dính mắc có cái vươn mang như vậy thì ở đó có phiền lụy.

Nếu trong cuộc sống của chúng ta, mà là cuộc sống vượt ngoài sự đối đãi thì chúng ta cảm thấy thảnh thơi hơn nhiều, bài học này là bài học lớn của những bậc Mâu Ni, bài học lớn của các bậc đại sĩ, bài học lớn của những bậc minh triết mà chúng ta rất là khó tiêu hóa.

 Ai trong chúng ta đi vào trong cuộc đời cũng mong rằng mình bước lên những nấc thang của xã hội, và mình được trở thành con người thế này và con người như thế khác, trong lúc chúng ta quên rằng những điều đó sẽ dẫn chúng ta trả một cái giá quá lớn. Cái giá lớn nhất không phải là chúng ta bị đưa đẩy vào những hoàn cảnh nghiệt ngã, mà giá quá lớn là chúng ta phải khổ sở với nó nhiều hơn và chúng ta cứ dùng những điều đó như là cái được. Nhưng trong Đạo Phật nói là cái đó không phải là cái được mà cái đó là cái khổ.

Lời dạy của Đức Phật hết sức đặc biệt, hết sức rõ nét là về ý nghĩa của nguyên nhân sâu xa mà chúng ta khổ lụy ở trong cuộc đời này, về cái có, và về cái không có, về cái được, và về cái không được, và về cái gì đã làm cho mình phẫn nộ, mà phẫn nộ đến cực kỳ bi phẫn bởi vì chúng ta đã không đạt được cái gì mà mình nghĩ rằng mình xứng đáng có, mình phải là và mình phải được, nên chi chúng ta khổ.

 

Send comment
Your Name
Your email address
(View: 63937)
Hấp hối có nghĩa là gần chết. Có nhiều từ đồng nghĩa cùng biểu đạt cho trạng thái này như đang lâm chung, thời gian cận tử, lúc sắp chết… Độ ở đây mang ý nghĩa chuyển hóa, giúp người vượt qua, giáo hóa cho người.
(View: 81004)
Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), sư Phước Nhân, một hành giả của thiền viện Phước Sơn, nói rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
(View: 83730)
Khi tập ngồi thiền, điều khó khăn trước tiên là phải làm ngưng cái đầu ồn ào của mình. Nhiều người, dù cố gắng, cũng không thể nào làm yên được những tạp niệm trong đầu mình.
(View: 78088)
Một Tăng đoàn Phật giáo hoạt động đúng phải gồm bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nữ cư sĩ và nam cư sĩ. Tất cả đều cần thiết như nhau để duy trì và hỗ trợ truyền thống và thực hành giáo pháp của Đức Phật.
(View: 19051)
Sân hận là loại cảm xúc thường gây khó cho nhiều người. Thí dụ khi bạn đang ngồi thiền, bỗng nhiên tâm sân khởi lên, và bạn nghĩ “Ồ không, tâm sân!”, -đó là thái độ phản kháng. Nhưng sẽ thế nào nếu bạn nghĩ, “Ồ tuyệt vời, tâm sân!” Bạn có thấy sự khác biệt không? Chúng ta thường có xu hướng dễ chấp nhận sự dễ chịu, nhưng ghét bỏ sự khó chịu.
(View: 19602)
Theravada (đọc như là tê-rê-va-đa), Học thuyết cuả các Trưởng lão, là một trường phái Phật giáo tiếp nhận giáo lý kinh điển từ Tipitaka, hay là kho tàng Thánh Điển Pali, mà theo như các học giả thường đồng ý với nhau rằng còn lưu lại được những ghi chép các giaó lý ban đầu cuả Đức Phật còn tồn tại với thời gian.
(View: 70853)
Trong suốt 45 năm giáo hóa, từ Thành đạo cho đến Niết Bàn, Phật quy tụ xung quanh hào quang của Ngài một số đệ tử cả xuất gia lẫn tại gia. Trong số này, những bậc xuất sắc ưu tú, chứng được thánh quả A La Hán gồm có 1250 vị. Đặc biệt có 10 vị mệnh danh là Thập Đại Đệ tử, trong 10 vị này mỗi vị đều có sở trường riêng, sở chứng riêng và đạo hạnh riêng.
(View: 18049)
Cái tinh thần chung của Phật là gì? Là tinh thần dắt dẫn, khuyến hóa chúng sanh biến đổi điều dữ ra điều lành, mê ra ngộ, khổ ra vui trong cảnh giải thoát Niết-bàn. Vậy bất cứ là kinh nào trong Tam tạng, dù mỗi kinh với mỗi sự trình bày khác nhau, nhưng nếu nhận có tinh thần giải thoát, có mục đích Niết-bàn trong đó tức chúng ta phải đem hết tinh thần khoáng đạt mà cố công tham cứu và học hỏi,
(View: 19581)
Được biết, xuất gia gieo duyên là một truyền thống lâu đời của các nước Phật giáo Nam tông như Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar và Sri Lanka - nơi Phật tử tại gia có thể thực hiện ước nguyện xuất gia, sống đời tu sĩ trong thời gian ngắn hạn 3 ngày, 7 ngày, 1 tháng, 3 tháng, 1 năm hoặc 3 năm. Theo đó, các Phật tử xuất gia gieo duyên tại thiền viện sẽ có thời khóa tu học như các chư Tăng tại thiền viện gồm học giáo lý, học kinh luật, ngồi thiền, tụng kinh, kinh hành, trồng cây, làm công quả...
(View: 18961)
Thuyết Vô Ngã chỉ tìm thấy trong Phật Giáo. Như vậy, thuyết Vô Ngã khiến cho Phật Giáo khác hẵn các tôn giáo khác. Bởi vì hầu hết các tôn giáo khác đều có sự tin tưởng ngược hẵn với thuyết Vô Ngã (Anatta). Thuyết Vô Ngã là thuyết nòng cốt hay thuyết cốt yếu của Phật giáo
(View: 114619)
Cái hại của sự ngu si đối với chính mình, phá hoại chính công việc của mình là điều mà kinh Phật thường nói đến. Người ngu làm những việc mà họ không nhận thức được lợi hại, có khi như một kẻ mất trí, không biết mình đang làm gì. Trong Kinh Tiểu bộ, một loạt bài kinh phê phán ngu si tự phá hại việc làm của mình được đặt liền kề nhau.
(View: 109710)
Phật giáo Nam Tông người Kinh phát triển chủ yếu tại hai thành phố lớn làSaigon và Thừa Thiên – Huế. Khoảng thập niên 30 của thế kỷ 20, Phật giáo Nam Tông người Kinh có mặt tại Sài Gòn – Gia Định. Đó là các nhà sư người Việt sang Campuchia tu học và trở thành những đoàn truyền giáo Phật giáo Nguyên Thủy đầu tiên tại Việt Nam bao gồm: hòa thượng Thiện Luật, hòa thượng Hộ Tông, hòa thượng Huệ Nghiêm.
(View: 18973)
Lý tưởng A-la-hán thường được xem là lý tưởng dẫn đạo cho Phật giáo Nguyên Thủy và lý tưởng Bồ tát là lý tưởng dẫn đạo của Phật giáo Đại Thừa. Nhận định này không hoàn toàn đúng, vì truyền thống Nguyên Thủy đã thể nhập lý tưởng Bồ tát trong giáo lý cơ bản và như vậy đã công nhận giá trị của quả vị A-la-hán và quả vị Phật đều là hạnh nguyện tu tập của người xuất gia. Vì thế, nói một cách chính xác hơn thì lý tưởng A-la-hán và lý tưởng Bồ tát là những lý tưởng dẫn đạo cho cả Phật giáo Tiền Nguyên Thủy lẫn Phật giáo Đại thừa
(View: 22867)
Tín ngưỡng dân gian cho rằng phóng sinh là một hành động thể hiện lòng từ bi và giải trừ được nghiệp chướng. Tục thả chim phóng sinh (sanh) vì thế rộn ràng nhất vẫn là vào các ngày rằm và ngày lễ vía, đặc biệt những ngày đầu năm mới.
(View: 19162)
Đạo Phật Việt Nam giống và khác nhau với đạo Phật Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng, Thái Lan, Miến Điện chỗ nào? Đạo Phật còn khác nhau về các ‘thừa’: Tiểu Thừa (Theravada- Nguyên Thuỷ), Đại thừa, Kim Cương thừa, các tông phái liên hệ đến cách hành trì: Thiền & Tịnh Độ. Ngay cả trong Thiền còn chia ra thành Lâm Tế & Tào Động & Đốn Ngộ & Tiệm Tu. Những người ngoài cửa hay mới vào cửa đã thấy nhức đầu và tẩu hỏa nhập ma
(View: 19561)
Tốt và xấu có phạm vi ý nghĩa khá rộng, và sự đánh giá tốt xấu về một người, một hành vi, còn tùy thuộc vào quan niệm xã hội, những quy định, quy ước và cả cách nhìn của mỗi cá nhân. Tốt và xấu là những tiêu chí để đánh giá đạo đức. Thông thường, một người tốt được nghĩ là một người có đạo đức, và ngược lại. Cũng như vậy, những hành vi được xem là tốt khi hành vi ấy tuân theo những nguyên tắc đạo đức nào đó; và ngược lại, những hành vi được coi là xấu khi chúng chệch ra khỏi những nguyên tắc đạo đức.
(View: 90235)
Phước đức dù cực khổ gieo tạo nhiều đời, nhưng do cái miệng tạo nghiệp, phê bình, chỉ trích, nói lời ác... thì trong giây phút cũng có thể tiêu tan.Cái miệng, lưỡi của người thế gian điều hại sẽ nhiều hơn điều lợi rồi. Tạo hóa sinh ra con người có hai lổ tai, nhưng chỉ có một cái miệng, cho nên phải nghe nhiều hơn nói, mới đúng với tự nhiên, được thân người là khó, có đầy đủ lục căn và miệng lưỡi trọn vẹn là phước đức quá rồi, hãy nhân vốn phước báu nầy mà gieo trồng thêm phước đức ra nữa, thì mới là người khôn, bởi vậy phải lo: Tu cái miệng là điều cần thiết nhất và xem như tu hơn nửa đời người rồi.
(View: 35465)
Trước hết phải nói rằng trong giới luật thuộc truyền thống Nguyên Thủy, không có giới cấm ăn thịt cá, mặc dầu có giới cấm sát sanh. Phật giáo Nguyên Thủy quan niệm rằng ăn cách nào cũng được, tùy duyên mà ăn cho có đủ sức khỏe để hành trì giáo pháp, ăn chay mà thân thể yếu đuối xanh xao, tinh thần bạc nhược thì rất tai hại, đường tu đạo đã không được tiến hóa mà còn trở ngại cho sự tu hành.
(View: 116467)
Việc đầu tiên của đức Phật sau khi giác ngộ là thành lập Tăng đoàn gồm những đệ tử xuất gia theo Ngài, những hiền nhân nay đây mai đó, những người từ bỏ tất cả để học Phật pháp và hoằng dương giáo lý giải thoát. Họ sống bằng cách đi khất thực từ nhà này đến nhà khác, và sở hữu của họ không có gì ngoài ba chiếc áo và một cái bình bát. Danh từ khất sĩ có từ đó. Khất Sĩ có nghĩa là khất thực và khất pháp, tức là xin vật thực của người đời để nuôi thân và xin Pháp của Phật để tu hành nuôi tâm.
(View: 18037)
Đối với tôn giáo, để trở thành tín đồ, chúng ta phải trải qua nghi lễ theo tôn giáo mình theo quy định. Với Ấn Độ giáo, muốn trở thành tín đồ có đầy đủ tư cách học kinh Vệ đà, chúng ta phải trải qua lễ Upanayana (lễ đánh dấu thời điểm người con trai chính thức được giáo dục trong dòng tư tưởng Vệ đà). Với Cơ Đốc giáo, muốn trở thành con chiên chính thức, chúng ta phải trai qua lễ Baptism (lễ rửa tội). Cũng vậy, muốn trở thành người phật tử chính thức của Phật giáo, chúng ta phải tiếp thọ lễ Quy Y Tam Bảo.