Đối trị sân hận

Friday, September 19, 201412:00 AM(View: 19018)

Đối trị sân hận

Michele McDonald

 

Bottom of Form

Michele McDonald là người đồng sáng lập Trung Tâm Thiền Minh Sát Hawaii với Steven Smith vào năm 1984. Ngoài việc hợp tác điều hành Trung tâm với Tăng đoàn Minh Sát Hawaii, bà còn đi du hóa khắp nước Mỹ, Canada, Miến Điện và nhiều nơi khác trên thế giới.

Bà là một người tiên phong âm thầm với tư cách là người phụ nữ đầu tiên hướng dẫn thiền hành ở Miến Điện, bên cạnh vị thầy đầy uy tín là Sayadaw U Lakkhana, trụ trì của Thiền viện Kyaswa. Được tu học với nhiều vị thầy Đông và Tây phương, Michele chịu nhiều ảnh hưởng với phương cách tu tập của bà Dipa Ma và Sayadaw U Pandita, và gần đây hơn với Mya Taung Sayadaw ở Miến Điện.
Dưới đây là một bài pháp thoại của bà tại Koko An.

Sân hận là loại cảm xúc thường gây khó cho nhiều người, vì vậy hôm nay tôi muốn bàn về cách đối trị nó. Thí dụ khi bạn đang ngồi thiền, bỗng nhiên tâm sân khởi lên, và bạn nghĩ “Ồ không, tâm sân!”, -đó là thái độ phản kháng. Nhưng sẽ thế nào nếu bạn nghĩ, “Ồ tuyệt vời, tâm sân!” Bạn có thấy sự khác biệt không? Chúng ta thường có xu hướng dễ chấp nhận sự dễ chịu, nhưng ghét bỏ sự khó chịu. Nhiều năm qua, tôi luôn nhấn mạnh điều này, chỉ nhằm tìm ra phương cách đối trị sân hận, để khi nó đến ta sẽ nói “Hay quá, thêm một cơ hội để ta học cách chấp nhận, làm quen với sân, thay vì cố kiềm nén nó, để rồi sau đó chúng ta cảm thấy chẳng có tự do vì luôn bất lực với nó”. Nếu chúng ta sáng suốt, và đầy năng lượng thì khi sân khởi lên, mà ta không phản kháng, thì cảm xúc đó rất thuần khiết. Khả năng để nương gá nơi thân, và cảm nhận sân như là cảm giác của thân –sự nóng nảy, căng thẳng, bực bội, nên ta cố thoát ra khỏi tình trạng đó, cũng giống như việc để núi lửa phun trào khi nó đến cực điểm. Mấy năm trước đây, tôi tham gia một khóa tu ở Big Island[1], vào thời điểm đó núi lửa đã phun trào. Tôi chưa từng thấy sự kiện đó bao giờ, nó giống như một luồng lửa lỏng phụt lên trên không trung. Đó cũng là lần đầu tiên trong đời, tôi ý thức về nguồn năng lượng này và cách để đối phó với nó. Cũng giống như với năng lượng này của Trái đất, nếu ta tránh ra xa, thì ta có thể để năng lượng đó đến rồi đi. Năng lượng đó thường tạo ra áp lực. Nó là sức nóng. Nó là lửa. Vì thế tốt hơn hết là ta tránh ra xa. Dĩ nhiên là sân giận chẳng hay ho gì nhưng nếu ta chỉ xem đó như một nguồn năng lượng và để nó đến rồi đi thì ta vẫn vui vẻ. Còn gì vui hơn khi ta không còn là nạn nhân của nó, không còn phải chạy trốn khỏi nó nữa.

blank

Thiền sư Ryokan từng phát biểu: “Sau cơn mưa, trời lại sáng. Nếu tâm ta trong sáng, thì tất cả mọi thứ quanh ta đều thuần khiết”.

Buông bỏ các pháp, xả bỏ bản thân, rồi thì ánh trăng, hoa cỏ sẽ hướng đạo cho ta. Nếu tâm thanh tịnh thì sân hận không còn là vấn đề. Từ ngữ sân giận thì cũng giống như các từ khác như tên ta, như tấm đệm hoặc là chiếc gương, chúng chỉ đơn thuần là từ ngữ, là khái niệm, nhưng sự trải nghiệm về chúng rất khác biệt. Trải nghiệm của bạn về sân là gì? Nhưng sự khác biệt này không phải là vấn đề, nếu như ta sẵn sàng khám phá chúng. Chúng chỉ là những nguồn năng lượng.

Cấp độ đầu tiên của việc đối phó với một cảm xúc bằng cách này là khi chúng ta rất sáng suốt. Ta không đồng hóa với sân -khi tâm sân khởi lên, ta chỉ cần cảm nhận một cách rõ ràng rằng đó là một loại cảm xúc thì nó sẽ qua đi. Cấp độ kế tiếp là khi ta có nhiều suy nghĩ liên quan đến sân hận. Thường cảm xúc có thể được xem như cách thức làm bánh, nếu ta trộn chung bột, muối, trứng, đường, coca, bơ lại với nhau và nướng lên thế là ta có được một cái bánh. Cũng vậy, nếu ta gợi lại một trải nghiệm, cùng những ký ức, suy nghĩ, cảm xúc liên quan thì thường ta lại buồn, hay sân. Ở đây, tạm coi là sân. Đôi khi một cảm xúc diễn ra thì có rất nhiều suy nghĩ theo cùng. Có thể là ta chưa nhận diện được chúng. Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ việc cảm nhận sân như một cảm xúc thuần túy đến việc phát sinh ra những suy nghĩ đi kèm. Nhưng nếu ta xem đó như một công thức, nếu ta xem đó chỉ là các suy tưởng, cảm xúc, cảm giác, đến rồi đi thì ta vẫn không bị đồng hóa với nó, ta có thể chỉ quan tâm đến những ý nghĩ và cảm giác nơi thân tâm. Ta có thể trở về với hơi thở, và để nó đến rồi đi. Lần nữa, việc làm này rất cần sự sáng suốt. Ta cần có tâm vững chãi để nhận biết sự đến và đi của cơn giận. Nó có thể không nhanh chóng qua đi như trong trường hợp đầu tiên tôi đã nói đến, chúng đến rồi đi, không nấn ná lâu dài. Trong trường hợp thứ hai, nó dai dẵng hơn, giống như kẹo gum, nhưng ta vẫn chưa bị đồng hóa với nó nhiều, nó vẫn đến rồi đi.

Mức độ thứ ba, phổ biến nhất, là khi ta đồng hóa với sân hơn. Khi thấy tấm biển đề, “Coi chừng chó dữ”, tôi luôn nghĩ đến, “Coi Chừng Tâm”. Với các cảm xúc, dường như chúng ta cũng cần tấm biển đề, “Coi Chừng Tâm”, vì chính sự tin vào những suy nghĩ của mình mới làm chúng ta đau khổ. Tôi xin chia sẻ cùng quý vị một kinh nghiệm về việc đối trị với sân. Lần nọ, tôi tham gia một khóa tu thiền ba tháng với một vị Thầy Miến Điện. Trước đây trong các khóa thiền mà tôi tham dự suốt chín năm nay, tôi chưa bao giờ sử dụng sổ tay, thế nhưng vị Thầy này khuyên chúng tôi sau khi xả thiền, nên ghi xuống một số điều đã xảy ra, vì thế mọi người ai cũng có sổ tay và bút. Mục đích là chỉ nên viết sau buổi tọa thiền. Thế nhưng người phụ nữ ngồi cạnh tôi không thể kiềm chế bản thân nên cứ ít phút bà lại viết. Vì thế tôi cứ ngồi đó, và cứ nghĩ đến việc bà sẽ cầm bút lên là tôi muốn phát điên. Rồi lúc bà thực sự cầm bút lên, tiếng bút chì sột soạt càng làm tôi điên tiết. Và tôi cảm thấy mình hoàn toàn đúng. Cái khó nhất của sân là khi bạn cho rằng mình đúng. Khi đó bạn hoàn toàn đồng hóa với sân. Dĩ nhiên là chúng ta luôn có những lý do hoàn hảo để bào chữa cho cơn giận. “Lẽ ra cô ta không nên sử dụng bút chì, không nên viết trong giờ hành thiền”. Tôi càng thấy mình đúng thì càng thấy cô ấy sai, nên cơn giận cứ thế tăng dần. Đến cuối giờ thiền, cơn giận của tôi sôi sục, tôi phải bỏ ra ngoài đi bách bộ rồi trở lại đối diện với nó, thế nhưng hết lần này đến lần khác, càng lúc càng giận hơn, cuối cùng tôi đành phất cờ trắng. Chắc quý vị hiểu cờ trắng là gì chứ. “Ngoại trừ việc rời bỏ khóa tu, tôi không thể làm gì khác hơn là học cách để đối trị sân hận”.

Đặc biệt trong phần đối diện với cảm xúc này, tôi có rất nhiều điều muốn nói. Khi bạn nhận thấy mình chấp vào một quan điểm, trong trường hợp này đối với tôi, đó là việc tôi quá đúng, trường hợp khác có thể là nỗi phiền muộn, như việc “mẹ mất năm tôi mười một tuổi” – bất cứ khi nào có một sự việc như thế diễn ra, ta dễ đồng hóa, ngập chìm trong đó. Tôi phát hiện ra điều đó có nghĩa là bạn đang cố tránh né cảm xúc. Khi một cách suy nghĩ lặp đi lặp lại nhiều lần -chúng ta ai không có những đài tầng mình ưa thích nhất, đài số bốn, bảy, tám. Suốt những thời khóa thiền, bạn sẽ nhận ra có những băng tầng lặp đi lặp lại không dừng nghĩ. Nếu quán chiếu kỹ hơn, có thể bạn sẽ phát hiện ra có một cảm xúc nào đó mà bạn đang né tránh. Khoảnh khắc bạn nhận ra điều đó tương tự như việc bạn rút chiếc gai nhọn ra khỏi tim, chỉ đơn giản như thế.

Với nhiều người, tôi nhận thấy là không dễ để băng tầng đó xuất hiện, để họ có thể chỉ cần buông xả, cảm nhận nó, và để nó qua đi. Thường là ta cần thời gian, và kiên nhẫn vì sự không muốn cảm xúc đó xuất hiện, không muốn vượt lên tình cảm đó. Không dễ dàng vì có những cảm xúc ta không muốn chấp nhận, ta cần nhiều từ bi đối với bản thân để có thể đối mặt với chúng. Như thế là giờ bạn đã có chút kinh nghiệm đối trị với sân hận là như thế nào. Lúc khác bạn sẽ tập cách đối trị với tâm ghen tỵ. Rồi với thời gian, lá cờ trắng sẽ có năng lực rất mạnh vì tâm ta thanh tịnh, ta không còn chống đối với những gì đang xảy ra. Chúng ta không còn sợ hãi, không còn phải kiềm chế và cố dẹp trừ chúng. Điều tuyệt vời đối với cuộc sống và tâm của ta là ở bất cứ thời điểm nào ta cũng có thể tỉnh thức, để nhìn thấy mọi sự rõ ràng. Có thể là chúng ta đã cố tránh điều gì đó suốt ba năm nay, hay năm kiếp qua, để rồi trong khoảnh khắc ta nhận nhìn ra nó, ta biết được nó.

Một điều nữa tôi muốn nói về việc đối trị các cảm xúc là nếu bạn đã thực hành khá lâu, bạn sẽ nhận thấy là có những khuôn mẫu tư duy lặp lại không dừng. Đôi khi đó là việc quan sát bản tâm, nhưng không nhất thiết phải đang trong khóa tu. Bởi vì khi tham dự khóa tu có nghĩa là bạn đang cố làm một việc hoàn toàn khác biệt. Nhưng nếu bạn thấy điều gì đó lặp đi lặp lại nhiều năm, điều đó thường có nghĩa là bạn cần thay đổi vài thứ trong cuộc sống và chắc chắn là phải nhìn lại tâm mình. Việc này rất quan trọng bởi vì mọi thứ điều có thể hoặc là tích cực hay là tiêu cực tùy thuộc vào mục tiêu sử dụng. Hành thiền cũng là một cách để trốn tránh, nhưng bạn không cần phải làm thế, dầu người ta thường có xu hướng làm thế.

Bên cạnh đức tính kiên nhẫn, được định nghĩa một cách thú vị là “khả năng chịu đựng những điều như ý hoặc bất như ý”, được biểu lộ bằng sự kham nhẫn. Thật là một đức tính tuyệt vời vì nó giúp ta phát triển niềm tin, tín tâm của ta. Tín tâm và kiên nhẫn tương quan mật thiết với nhau. Bạn có thể khám phá ra điều này khi ngồi thiền và nó có thể sẽ khiến bạn choáng ngợp, nên bạn đè nén nó hoặc đắm mình trong đó. Rồi trong một lần tọa thiền khác, bạn sẽ biết phải ứng phó với nó như thế nào. Trong trường hợp của tôi, khi tôi phải đối mặt với tâm hối của mình, tôi đã phải mất hơn mười năm để biết cách đối trị nó. Khi đã biết cách đối trị một vấn đề, bạn có thể áp dụng phương cách đó với mọi vấn đề khác. Cùng một cách thôi, đó là sử dụng ngọn cờ trắng của bạn.

Con người chúng ta cũng rất lạ, trong đầu ta luôn có những cuộc chiến tranh tưởng tượng. Bạn nghĩ có một lãnh địa là thân, với cái đầu đầy những cuộc chiến tưởng tượng. Nếu có một cuộc chiến như thế trong đầu, thì bằng mọi cách bạn phải thoát ra- điều đó có nghĩa là bạn phải dừng nó lại, nó không đáng để bạn bám víu. Bạn không thể giải quyết những vấn đề này. Chúng sẽ làm bạn điên mất, có khi bạn mất cả đời để tìm cách giải quyết chúng. Điều bạn có thể làm được là: hòa mình, cảm nhận và xả bỏ nó, quan trọng nhất là học cách xả bỏ. Bạn không thể xả bỏ điều gì mà bạn chưa cảm nhận hoặc chưa nhìn thấy. Điểm then chốt trong Phật giáo là tâm xả. Đó là tâm giải thoát.

Tôi muốn đề cập đến một vấn đề nữa. Năm ngoái, có một người bạn, cũng bắt đầu hành thiền cùng khoảng thời gian với tôi, đến tâm sự. Anh nói rằng mười lăm năm đầu tu tập, anh đã sử dụng thiền để cảm nhận mình là một con người trọn vẹn, để tìm sự chấp nhận, khen ngợi từ quý Thầy, để tìm cảm giác gắn kết như trong một gia đình, điều mà anh chưa bao giờ có trong gia đình riêng của mình. Tôi nghĩ đây là một giai đoạn quan trọng, đã bị lãng quên trong nền văn hóa của chúng ta, và nó đang dần lan rộng ra toàn thế giới. Với nền văn hóa thuần tâm linh, đến thời kỳ trưởng thành người ta luôn hướng dẫn tận tình để giúp người trẻ vượt qua giai đoạn khi tâm còn non yếu, giai đoạn không được bảo vệ, dễ bị giao động và rất cần sự hướng dẫn. Trong nền văn hóa đó, thanh niên, thiếu nữ tiếp nhận giai đoạn này nhằm khẳng định mình là người trưởng thành, một tiến trình qua đó người trẻ học cách đối diện với cuộc sống và phát triển tâm linh ổn định.

Ngày xưa, bất kỳ giáo lý thần học chính thống nào cũng giúp người trẻ hòa nhập vào thế giới của người lớn, có một chổ đứng, cảm thấy thế giới đó thuộc về họ, và đầy lòng tin vào đó. Tôi nghĩ hầu hết những người tôi đã tiếp xúc trong các khóa tu đã bỏ qua giai đoạn đó. Trong một nền văn hóa lành mạnh, khi thanh thiếu niên có được cảm giác trọn vẹn thì bước kế tiếp là họ sẽ đi tìm điều gì đó sâu sắc hơn, nhìn sâu vào sự sống và cái chết hơn, đây là sự truy tầm tâm linh. Ngày nay, mọi thứ đảo lộn vì nhiều người trong chúng ta đã bỏ qua giai đoạn khởi đầu đó.

Chúng ta thường mong đợi thiền sẽ mang lại nhiều kết quả hơn nó thực sự có thể. Nhưng tôi không nghĩ là thiền có thể giải quyết tất cả mọi vấn đề của chúng ta. Tôi không nghĩ nó nhất thiết phải khiến ta cảm thấy trọn vẹn trong vai trò của mình, hay tạo ra một nơi chốn bình yên cho con người. Khi đã hiểu được điều này, chúng ta có thể thực sự tiến sâu hơn trên con đường thiền tập. Hiện tại, điều ngăn trở chúng ta tiến sâu hơn là vì chúng ta mong mỏi quá nhiều ở thiền, do đó ta tham dự các khóa thiền, mong đợi quá nhiều ở nó, mong rằng nó sẽ giúp ta tiến sâu hơn.

Mục đích của việc hành thiền là để giúp ta thay đổi hoàn toàn tư duy về cuộc sống. Thiền định rất sâu sắc, nó không thể xảy ra ở những mức độ khác. Đó là điều rất quan trọng vì đó là cách chúng ta sống trong thế giới vật chất và chúng ta mang trở lại trong thế giới vật chất đó tất cả những gì ta đã học được trong khóa tu. Hạnh phúc trong thiền định rất tinh tế…

Thiền định mang chúng ta đến gần với tiềm năng nội tại, hay bổn tâm của chúng ta. Hạnh phúc cũng vậy. Nó không dựa vào những trải nghiệm mà dựa vào sự không có định kiến, để dầu có điều gì xảy ra, chúng ta cũng không bị chao đảo.

Giải thoát là không còn bị ảnh hưởng bởi mọi chuyện xung quanh nhưng cũng không phải là sự lẫn trốn hoặc là sống mà như chết.

Tôi muốn kết thúc với câu nói của Alexander Solzhenitsyn[2]: Nếu chỉ một thứ tạo nên thế giới này thì đơn giản rồi, nếu như đâu đó chỉ những người xấu mới ngấm ngầm phạm tội và như vậy ta chỉ cần tách chúng ra khỏi thế giới còn lại và tiêu hủy chúng đi. Thế nhưng ranh giới giữa cái thiện và ác chia đôi trái tim của chúng ta. Có ai sẵn lòng hủy diệt một phần trái tim mình không?

Chú thích:

[1] Một trong những đảo lớn nhất ở Hawaii, nằm về cực đông nam của Hawaii, cũng thuộc dãy các đảo có núi lửa ở Bắc Thái Bình Dương.
[2] Nhà văn Nga (1918-2008), đã được giải Nobel về Văn Chương

Chuyển ngữ: Thích Nữ Như Hạnh

Theo: Emotions –Working with Anger.

Nguồn:  BuddhaNet/ thuvienhoasen.org

 

Send comment
Your Name
Your email address
(View: 63859)
Hấp hối có nghĩa là gần chết. Có nhiều từ đồng nghĩa cùng biểu đạt cho trạng thái này như đang lâm chung, thời gian cận tử, lúc sắp chết… Độ ở đây mang ý nghĩa chuyển hóa, giúp người vượt qua, giáo hóa cho người.
(View: 80921)
Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), sư Phước Nhân, một hành giả của thiền viện Phước Sơn, nói rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
(View: 83639)
Khi tập ngồi thiền, điều khó khăn trước tiên là phải làm ngưng cái đầu ồn ào của mình. Nhiều người, dù cố gắng, cũng không thể nào làm yên được những tạp niệm trong đầu mình.
(View: 77972)
Một Tăng đoàn Phật giáo hoạt động đúng phải gồm bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nữ cư sĩ và nam cư sĩ. Tất cả đều cần thiết như nhau để duy trì và hỗ trợ truyền thống và thực hành giáo pháp của Đức Phật.
(View: 19575)
Theravada (đọc như là tê-rê-va-đa), Học thuyết cuả các Trưởng lão, là một trường phái Phật giáo tiếp nhận giáo lý kinh điển từ Tipitaka, hay là kho tàng Thánh Điển Pali, mà theo như các học giả thường đồng ý với nhau rằng còn lưu lại được những ghi chép các giaó lý ban đầu cuả Đức Phật còn tồn tại với thời gian.
(View: 70552)
Trong suốt 45 năm giáo hóa, từ Thành đạo cho đến Niết Bàn, Phật quy tụ xung quanh hào quang của Ngài một số đệ tử cả xuất gia lẫn tại gia. Trong số này, những bậc xuất sắc ưu tú, chứng được thánh quả A La Hán gồm có 1250 vị. Đặc biệt có 10 vị mệnh danh là Thập Đại Đệ tử, trong 10 vị này mỗi vị đều có sở trường riêng, sở chứng riêng và đạo hạnh riêng.
(View: 18022)
Cái tinh thần chung của Phật là gì? Là tinh thần dắt dẫn, khuyến hóa chúng sanh biến đổi điều dữ ra điều lành, mê ra ngộ, khổ ra vui trong cảnh giải thoát Niết-bàn. Vậy bất cứ là kinh nào trong Tam tạng, dù mỗi kinh với mỗi sự trình bày khác nhau, nhưng nếu nhận có tinh thần giải thoát, có mục đích Niết-bàn trong đó tức chúng ta phải đem hết tinh thần khoáng đạt mà cố công tham cứu và học hỏi,
(View: 19554)
Được biết, xuất gia gieo duyên là một truyền thống lâu đời của các nước Phật giáo Nam tông như Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar và Sri Lanka - nơi Phật tử tại gia có thể thực hiện ước nguyện xuất gia, sống đời tu sĩ trong thời gian ngắn hạn 3 ngày, 7 ngày, 1 tháng, 3 tháng, 1 năm hoặc 3 năm. Theo đó, các Phật tử xuất gia gieo duyên tại thiền viện sẽ có thời khóa tu học như các chư Tăng tại thiền viện gồm học giáo lý, học kinh luật, ngồi thiền, tụng kinh, kinh hành, trồng cây, làm công quả...
(View: 18933)
Thuyết Vô Ngã chỉ tìm thấy trong Phật Giáo. Như vậy, thuyết Vô Ngã khiến cho Phật Giáo khác hẵn các tôn giáo khác. Bởi vì hầu hết các tôn giáo khác đều có sự tin tưởng ngược hẵn với thuyết Vô Ngã (Anatta). Thuyết Vô Ngã là thuyết nòng cốt hay thuyết cốt yếu của Phật giáo
(View: 114553)
Cái hại của sự ngu si đối với chính mình, phá hoại chính công việc của mình là điều mà kinh Phật thường nói đến. Người ngu làm những việc mà họ không nhận thức được lợi hại, có khi như một kẻ mất trí, không biết mình đang làm gì. Trong Kinh Tiểu bộ, một loạt bài kinh phê phán ngu si tự phá hại việc làm của mình được đặt liền kề nhau.
(View: 118019)
Nếu ai làm cho mình bực thì mình qui trách cho người đó, kể như xong chuyện. Nhưng, Đức Phật thì Ngài nói đến những trạng thái tham sân. Trạng thái sân đến từ nhiều căn đế, mà chúng ta rất khó có thể tưởng tượng, nếu chúng ta không phải là người hiểu Phật Pháp
(View: 109663)
Phật giáo Nam Tông người Kinh phát triển chủ yếu tại hai thành phố lớn làSaigon và Thừa Thiên – Huế. Khoảng thập niên 30 của thế kỷ 20, Phật giáo Nam Tông người Kinh có mặt tại Sài Gòn – Gia Định. Đó là các nhà sư người Việt sang Campuchia tu học và trở thành những đoàn truyền giáo Phật giáo Nguyên Thủy đầu tiên tại Việt Nam bao gồm: hòa thượng Thiện Luật, hòa thượng Hộ Tông, hòa thượng Huệ Nghiêm.
(View: 18938)
Lý tưởng A-la-hán thường được xem là lý tưởng dẫn đạo cho Phật giáo Nguyên Thủy và lý tưởng Bồ tát là lý tưởng dẫn đạo của Phật giáo Đại Thừa. Nhận định này không hoàn toàn đúng, vì truyền thống Nguyên Thủy đã thể nhập lý tưởng Bồ tát trong giáo lý cơ bản và như vậy đã công nhận giá trị của quả vị A-la-hán và quả vị Phật đều là hạnh nguyện tu tập của người xuất gia. Vì thế, nói một cách chính xác hơn thì lý tưởng A-la-hán và lý tưởng Bồ tát là những lý tưởng dẫn đạo cho cả Phật giáo Tiền Nguyên Thủy lẫn Phật giáo Đại thừa
(View: 22832)
Tín ngưỡng dân gian cho rằng phóng sinh là một hành động thể hiện lòng từ bi và giải trừ được nghiệp chướng. Tục thả chim phóng sinh (sanh) vì thế rộn ràng nhất vẫn là vào các ngày rằm và ngày lễ vía, đặc biệt những ngày đầu năm mới.
(View: 19135)
Đạo Phật Việt Nam giống và khác nhau với đạo Phật Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng, Thái Lan, Miến Điện chỗ nào? Đạo Phật còn khác nhau về các ‘thừa’: Tiểu Thừa (Theravada- Nguyên Thuỷ), Đại thừa, Kim Cương thừa, các tông phái liên hệ đến cách hành trì: Thiền & Tịnh Độ. Ngay cả trong Thiền còn chia ra thành Lâm Tế & Tào Động & Đốn Ngộ & Tiệm Tu. Những người ngoài cửa hay mới vào cửa đã thấy nhức đầu và tẩu hỏa nhập ma
(View: 19531)
Tốt và xấu có phạm vi ý nghĩa khá rộng, và sự đánh giá tốt xấu về một người, một hành vi, còn tùy thuộc vào quan niệm xã hội, những quy định, quy ước và cả cách nhìn của mỗi cá nhân. Tốt và xấu là những tiêu chí để đánh giá đạo đức. Thông thường, một người tốt được nghĩ là một người có đạo đức, và ngược lại. Cũng như vậy, những hành vi được xem là tốt khi hành vi ấy tuân theo những nguyên tắc đạo đức nào đó; và ngược lại, những hành vi được coi là xấu khi chúng chệch ra khỏi những nguyên tắc đạo đức.
(View: 90145)
Phước đức dù cực khổ gieo tạo nhiều đời, nhưng do cái miệng tạo nghiệp, phê bình, chỉ trích, nói lời ác... thì trong giây phút cũng có thể tiêu tan.Cái miệng, lưỡi của người thế gian điều hại sẽ nhiều hơn điều lợi rồi. Tạo hóa sinh ra con người có hai lổ tai, nhưng chỉ có một cái miệng, cho nên phải nghe nhiều hơn nói, mới đúng với tự nhiên, được thân người là khó, có đầy đủ lục căn và miệng lưỡi trọn vẹn là phước đức quá rồi, hãy nhân vốn phước báu nầy mà gieo trồng thêm phước đức ra nữa, thì mới là người khôn, bởi vậy phải lo: Tu cái miệng là điều cần thiết nhất và xem như tu hơn nửa đời người rồi.
(View: 35395)
Trước hết phải nói rằng trong giới luật thuộc truyền thống Nguyên Thủy, không có giới cấm ăn thịt cá, mặc dầu có giới cấm sát sanh. Phật giáo Nguyên Thủy quan niệm rằng ăn cách nào cũng được, tùy duyên mà ăn cho có đủ sức khỏe để hành trì giáo pháp, ăn chay mà thân thể yếu đuối xanh xao, tinh thần bạc nhược thì rất tai hại, đường tu đạo đã không được tiến hóa mà còn trở ngại cho sự tu hành.
(View: 116420)
Việc đầu tiên của đức Phật sau khi giác ngộ là thành lập Tăng đoàn gồm những đệ tử xuất gia theo Ngài, những hiền nhân nay đây mai đó, những người từ bỏ tất cả để học Phật pháp và hoằng dương giáo lý giải thoát. Họ sống bằng cách đi khất thực từ nhà này đến nhà khác, và sở hữu của họ không có gì ngoài ba chiếc áo và một cái bình bát. Danh từ khất sĩ có từ đó. Khất Sĩ có nghĩa là khất thực và khất pháp, tức là xin vật thực của người đời để nuôi thân và xin Pháp của Phật để tu hành nuôi tâm.
(View: 18018)
Đối với tôn giáo, để trở thành tín đồ, chúng ta phải trải qua nghi lễ theo tôn giáo mình theo quy định. Với Ấn Độ giáo, muốn trở thành tín đồ có đầy đủ tư cách học kinh Vệ đà, chúng ta phải trải qua lễ Upanayana (lễ đánh dấu thời điểm người con trai chính thức được giáo dục trong dòng tư tưởng Vệ đà). Với Cơ Đốc giáo, muốn trở thành con chiên chính thức, chúng ta phải trai qua lễ Baptism (lễ rửa tội). Cũng vậy, muốn trở thành người phật tử chính thức của Phật giáo, chúng ta phải tiếp thọ lễ Quy Y Tam Bảo.