(Xem: 1828)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2283)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

Lợi ích của tọa Thiền với giáo dục

06 Tháng Tư 201312:00 SA(Xem: 15877)

Lợi ích của tọa thiền với giáo dục

 BS. Trịnh Văn Hiếu

giaoduc-thumbnailMục đích tối hậu, cao quý nhất của con người là trở thành Phật. Nhưng không phải ai “kiến tánh” và toạ thiền cũng đều thành Phật cả. Song, toạ thiền của nhà Phật là con đường duy nhất để có thánh trí và có lòng từ bi. Đó là con đường của chư Phật.

Giáo dục là giúp con người, dù khoa học kỹ thuật hay đạo đức, học tập và lý luận để phát triển trí thông minh, có kiến thức, có nhân cách, tự lập và phục vụ xã hội.

Giáo dục là nắm giữ, tích trữ, Thiền là buông bỏ, xả ly. Phương pháp tuy có khác nhau, nhưng cùng chung một hướng là: tiến tới chân, thiện, mỹ. Nhưng cái đích của giáo dục là giúp con người trở nên có trí thức cao, có nhân cách; còn Thiền của nhà Phật lại dắt dẫn con người đến được trí tuệ tối hậu, từ bi, thành Chánh Đẳng Giác.

Thiền vô ngôn. Thực chất chúng ta không thể hiểu Thiền bằng ngôn ngữ, văn tự được. Muốn hiểu Thiền phải toạ Thiền. Còn dưới con mắt của các nhà khoa học có thể giúp chúng ta hiểu Thiền được đến đâu? Ngay từ đầu thế kỷ XX, các nhà Y sinh học Âu, Mỹ đã sang Ấn Độ để nghiên cứu những thay đổi các hằng số sinh lý khi các Thiền sư nhập Thiền. Khi nhập Thiền thì chuyển hoá của toàn cơ thể xuống rất thấp so với lúc tỉnh táo khi hoạt động bình thường. Nó còn thấp hơn cả trong khi đang ngủ, mặc dầu trong lúc nhập Thiền người ta vẫn ở trong trạng thái phải tỉnh, vô niệm, nghĩa là không phải ngủ hay hôn trầm, cũng không phải thức hay tạp niệm. Biểu hiện của chuyển hoá thấp là do giảm tiêu thụ oxy. Chỉ sau 5-10 phút đã giảm xuống tới 15-20% so với khi chưa nhập Thiền; trong khi đó, phải sau 7 giờ ngủ mới chỉ giảm tới 15%. Do giảm tiêu thụ oxy đã kéo theo hàng loạt các thông số sinh lý khác như: giảm tầng số thở, thông khí thở, và thải trừ CO2. Từ đó, nhịp đập của tim giảm đến 3-4 lần phút, còn nhịp thở, có khi mỗi phút chỉ thở có 3-4 lần. Việc đập của nhịp tim chậm dần lại 3-4 lần/phút (hoặc có khi hơn) mà vẫn duy trì được sự sống bình thường là có ý nghĩa cực kỳ to lớn. Điện não đồ biểu hiện một trạng thái thư giãn cao độ của vỏ đại não với các chúm sóng alpha va béta. Như vậy, khi nhập Thiền đã làm thay đổi được trạng thái sinh lý và tâm thần.

Thở chậm do Thiền đúng phương pháp đã đem lại cho tim một sự nghỉ ngơi. Do tập luyện lâu dài, công phu tinh tiến, nhịp tim cũng đập chậm dần dần lại. Nhịp tim đập chậm lại nói lên một sự tiêu thụ oxy cho toàn bộ cơ thể cũng giảm đi và là dấu hiệu của một cơ thể có nhiều khả năng sống lâu, và não bộ luôn ở trong một trạng thái thăng bằng, ổn định, sẵn sàng đón nhận và xử lý những thông tin một cách linh hoạt, nhạy bén, chính xác.

Nhịp tim đập chậm là do nhịp thở chậm. Một người bình thường có nhịp thở chậm, sâu, êm là dấu hiệu tốt; trái lại nhanh, nông, thô là dấu hiệu xấu.

Stress là đả kích tâm lý. Khi cơ thể bị stress dễ gây ra hiện tượng thở gấp. Thở nông, thở gấp lâu ngày sẽ gây ra rối loạn tất cả các hằng số sinh lý cơ thể. Trí não không thể sáng suốt, minh mẫn. Đó là nguyên nhân gây nên suy nhược thần kinh, loạn thần kinh, tâm thần phân liệt. Cơ thể suy nhược dần dần do tiêu hao năng lượng. Vòng luẩn quẩn của sự tiêu hao năng lượng là đầu mối của mọi phiền não.

Thế là khoa học đã chứng minh được toạ thiền đúng cách, đều đặn, lâu dài thực sự đã làm thay đổi được các hằng số sinh lý cơ thể một cách tích cực, thân xác được ổn định, tâm thần được thăng bằng. Khoa học chỉ có thể hiểu được đến thế thôi, chứ không thể đi xa hơn để hiểu hết ý nghĩa sâu xa của thiền. Sự hiểu biết trên đây của khoa học đã tạo điều mơ ước của các nhà phân tâm học, ấy là muốn dùng thiền làm phương pháp trị liệu tâm thần (vấn đề này sẽ được bàn trong một dịp khác). Và các nhà giáo dục học, muốn ứng dụng thực hành toạ Thiền trong học đường để phát triển trí thông minh và trí sáng tạo.

Trong đời thường có rất nhiều người làm việc trong trạng thái thiền mà không hề hay biết. Newton nghiên cứu mãi về lực hấp dẫn mà vẫn không tìm ra. Ông bèn ra vườn, ngồi dưới gốc cây táo thư giãn cho sảng khoái. Chợt một quả táo rơi trúng người ông - ông bừng tỉnh mà nhìn thấy được “luật vạn vật hấp dẫn”. Léonard De Vinci là một hoạ sĩ tài danh. Vậy mà ông chỉ nhận vẽ nàng Mona Lisa với một điều kiện là, ông được vẽ nàng cho đến khi nào ông cảm thấy muốn thực vẽ. Rồi hàng trăm, hàng trăm phác thảo... Léonard và Mona Lisa đã trở nên hiệp nhất. Chân dung nàng được hoàn thiện đã gắn liền với tên tác giả trở thành vĩnh cửu. Đặng Thái Sơn đã đàn những bản nhạc của Chopin cho đến mức độ Chopin và những bản nhạc đó trở thành chính anh. Trong giải piano Chopin quốc tế, anh đã biểu diễn với tất cả những xúc động của tâm hồn mình đối với Chopin. Không gian như lắng xuống, anh đã tự đánh mất chính mình trong tự kỷ. Khán-thính giả cũng bị cuốn hút theo. Chỉ còn lại hồn nhạc Chopin trong thinh không. Cả nhạc sĩ lẫn khán thính giả lâm vào một trạng thái “xuất thần nhập hoá”. Tất cả mọi người đều cảm thấy chính anh là người xứng đáng được giải Piano Chopin quốc tế.

Qua mấy sự kiện trên, chúng ta đều có nhận xét là, khởi đầu của công việc làm là có ý thức, với trí tuệ vốn có của mình và bằng nỗ lực của bản thân đã chủ động, tự nguyện, chân thật, hồn nhiên, làm việc một cách kiên trì, tập trung, siêng năng, cần mẫn, lâu dài nhiều tháng năm. Họ thường có thói quen làm việc đúng giờ, đúng chỗ, đều đặn và thường chỉ chuyên sâu nghiên cứu một chủ đề. Sự chuyên sâu một chủ đề trở nên chuyên môn hoá đã hình thành một định hình hoạt động (stéréotipie-dynamie). Định hình hoạt động này hình thành tính cách vô ý thức. Chính tính cách vô ý thức này tích tập những thông tin. Lượng thông tin này tự sàng lọc được thần hoá và siêu hoá trong tiềm thức hình thành thần bí cảm, un đúc trở thành tự kỷ; chỉ chờ khi cơ duyên đến là thăng hoa thành sáng tạo. Thế là, thần bí cảm của các nhà làm công việc về khoa học và nghệ thuật, không phải do người chết mách bảo, cũng không phải do mặc khải thần ban, mà là do ở tấm lòng chủ động tự nguyện, chân thật hồn nhiên, tập trung bền bỉ, cúc cung tận tụy đi trên con đường của mình mà có.

Chủ động tự nguyện, chân thật hồn nhiên, kiên trì tập trung... thật là rất gần gũi với tinh thần Thiền và đó là những đức tính của những nhà làm công việc về khoa học nghệ thuật chân chính. Và thiên tài chỉ có thể nằm trong số những người, sau khi ra trường, chủ động tự nguyện, âm thầm tập trung làm việc một mình, lâu dài, nhiều tháng năm mà không hề có ý định cầu lợi, cầu danh, Van Gogh bảo: Vẽ tranh có phải là để bán đâu!

Thế là, giáo dục mà mục đích là, dù dạy cho người ta tri thức đạo đức có tính cách giáo dục phổ thông, đều nhằm vào sự huấn luyện lành mạnh từng bước để dưỡng thành định hình một cách vô ý thức. Trong khi công việc làm của các nhà khoa học và nghệ thuật là hành động có tính cách chủ động tự nguyện, kiên trì tập trung, tích cực hơn cũng hình thành định hình một cách vô ý thức. Bởi thế cho nên, giáo dục không phải chỉ dạy cho học sinh kiến thức và đạo đức, mà còn phải huấn luyện cho các em hình thành được một thói quen có tính cách chủ động tự nguyện, chân thật hồn nhiên, kiên trì tập trung, bền bỉ, lâu dài, có phương pháp và không có động cơ cầu lợi, cầu danh. Bởi vì, làm khoa học nghệ thuật mà tâm thức còn dành ra một ngăn để cầu lợi, cầu danh, chắc chẳng thể thành công. Và đây có lẽ là điểm mấu chốt được bàn đến trong chiến lược giáo dục nhằm dạy cho các em học sinh có thói quen; chủ động tự nguyện, chân thật hồn nhiên, kiên trì tập trung, bền bỉ lâu dài và có phương pháp. Nhưng chính thiền lại là phương pháp để đem lại những đức tính trên. Chính thiền là phương pháp duy nhất, tối hậu để giúp người ta un đúc những thiện căn chủng tử dưỡng thành tính cách Phật. Việc toạ thiền thường nhật, không gián đoạn, không bỏ dở là bí quyết của thành công, song thực sự không phải là một việc đơn giản. Nhưng nếu ngành giáo dục làm được, các em mới có cơ may để trở thành các nhà bác học, các nhân tài. Bởi vì, toạ thiền đúng phương pháp, đều đăn, không gián đoạn, không bỏ dở, sẽ chuyển hoá được thân tâm dần dần hình thành được tính cách chủ động tự nguyện, chân thật hồn nhiên, kiên trì, tập trung... một cách vô ý thức.

Như phần mở đầu đã nói, mục đích của giáo dục và thiền có chỗ giống nhau là cúng hướng đến: chân, thiện, mỹ; nhưng giáo dục là nhằm huấn luyện con người trở thành hoàn thiện, có tri thức, có nhân cách, còn Phật giáo lại nhằm giúp con người giải thoát và giác ngộ. Bởi vì, tri thức của con người, cho dù là tri thức của nhân loại cộng lại, cũng chỉ là tri thức nhị nguyên, bị giới hạn nên chỉ đem lại chân lý tương đối. Còn trí tuệ Phật là trí tuệ tối hậu siêu việt, nhất nguyên nên là chân lý tuyệt đối.

Bảo rằng, giáo dục là nắm giữ, tích trữ; còn thiền là buông bỏ, xả ly, chúng ta thử nghe câu chuyện sau đây:

Thiền sư Nhật Bản Nanin (1868-1912) thời vua Minh Trị, tiếp một vị giáo sư đại học đến hỏi về thiền.

Nanin mời trà. Ông đã rót đầy tách trà của khách nhưng vẫn tiếp tục rót mãi. Vị giáo sư thấy nước rót đã đầy tách đến trào cả ra cho đến khi không kiềm được nữa phải nói: “Đầy quá rồi! Xin đừng rót nữa !".

“Giống như cái tách này”, Nanin nói, “Ông cũng đầy ắp những quan niệm, tư tưởng của ông! Làm sao tôi có thể bày tí thiền cho ông nghe được. Trừ phi ông cạn cái tách của ông trước đã”.

Mới nghe câu chuyện trên tưởng chừng như trái nhau, nhưng thực ra, giáo dục là phương pháp thuộc về giai đoạn đầu của con người và thật là cần thiết phải học tập, và lý luận. Nếu không, sẽ không có đủ cơ duyên để có thể nhận thức được rằng, ở đằng sau cái tri thức nhị nguyên đồ sộ kia vẫn còn có một cái gì đó cao thượng hơn, siêu việt hơn, ấy là vô thức tâm linh, là thánh trí nhất nguyên siêu việt, là trí tuệ Phật. Còn thiền là phương pháp thuộc về giai đoạn sau của con người để phát triển phần tâm linh trở thành Phật. Đó là chỗ thiếu sót đương nhiên của giáo dục, bời vì, phát triển tâm linh để ngộ tri kiến Phật, nhập tri kiến Phật, không thuộc về trách nhiệm của giáo dục. Nếu giai đoạn đầu là nắm giữ, tích trữ đến một trình độ nhất định, hoặc có khi học vấn còn chưa cao, thậm chí còn ở mức độ rất thấp; nhưng nếu gặp cơ duyên biết đến Phật pháp, đến thiền; thì giai đoạn sau như đã nói ở trên là, vẫn tiếp tục đi trên con đường của mình và phải buông bỏ, xả ly bằng cách sống trong đời thường mà không chấp trước nhị nguyên, kết hợp toạ thiền bằng chỉ quán. Chỉ quán tưởng từng chủ đề một, quán tưởng đến mức độ, chủ đề với chủ thể trở nên hiệp nhất. Bởi vì, nếu không đại dũng thì không dám buông bỏ tất cả cái vốn tri thức đồ sộ mà cả cuộc đời phải lao tâm khổ tứ mới tích luỹ nổi. Và nếu không phải là đại trí thì không tài nào tin nổi được ở đằng sau cái mớ tri thức đồ sộ kia còn có một cái gì đó được gọi là chân không mà diệu hữu. Sự bông bỏ ở đây phải được hiểu là phá chấp. Bởi vì, nếu không có tinh thần phá chấp, thì cái mớ tri thức khổng lồ kia sẽ trở thành cái xích vô hình, trói chặt mình lại bởi lòng cao ngạo không tránh khỏi.


Chúng ta đều biết rằng, nhất cử nhất động, nhất tư nhất niệm của con người, dù nhỏ nhặt đến đâu, trong một thời gian ngắn ngủi đến đâu cũng đều không mất đi và nó để lại dấu vết. Nó ghi chép lại một cách rất kỹ càng trung thực. Nó rơi vào tiềm thức, nó in lên vỏ não, nó khắc vào gien và nó hiện lên mặt. Đó là quy luật tiến hoa sinh học, di truyền pháp tướng. Pháp tướng tông thường nói thức biến. Thế nên, thức biến như thế nào thì trên mặt cũng xuất hiện những cơ thần kinh biểu tượng tương ứng (đây cũng là chỗ tựa của khoa học hình sự và nghệ thuật sân khấu điện ảnh). Tất cả đều là chủng tử hình thành tính cách vô ý thức bản năng di truyền.

Quả nhiện, mớ tri thức đồ sộ mà cả cuộc đời mới tích luỹ nổi, làm sao có thể buông bỏ được. Và buông bỏ bằng cách nào? Bởi vì, những tri thức đó là những thiện chủng tử in sâu vào thành tính cách vô ý thức hình thành nghiệp. Chính nhờ vào cái vốn tri thức này mà nhà Phật có một thuật ngữ tương đương là Trí hữu sư làm phương tiện cơ sở, để chuyển hoá dần dần thành trí Vô sư. Quả nhiên, nếu Đức Phật không phương tiện dùng Nhân minh, làm sao có thể bẻ gãy mọi triết thuyết của ngoại đạo? Qua kinh Kim cang, Đức Phật muốn dạy chúng ta phải phá chấp. Tu Phật là tích thiện nghiệp. Tích tụ thiện nghiệp rốt ráo nhất là phải diệt thức. Diệt thức tức diệt trừ tâm sai biệt, xoá bỏ ác chấp nhị nguyên, siêu việt thiện ác, thánh phàm mới có phúc duyên mà lần vào đại dương vô sinh bất nhị, nhập tri kiến Phật được. Chẳng thế mà Lục tổ Huệ Năng vốn là người xứ man di thất học. Với lòng tin mãnh liệt của mình, phát Bồ-đê-tâm, giã gạo nghe kinh, ngày này qua tháng nọ... Khi ngài nghe đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim cang, ngài chợt bừng sáng, bèn nói: “Đâu ngờ trong tâm ta lại có tính Phật”. Ngài nhận thức được rằng, phải không được trụ tâm vào đâu thì sẽ sinh tâm Phật. Không trụ nghĩa là không chấp trước, không chấp trước vào cái vốn tri thức nhị nguyên, giới hạn, tương đối để có thể dần dần chuyển thức thành trí.

Thế là tu Phật, thực hành toạ thiền mà mục đích là thành Phật, chính là tích tập kinh nghiệm, những thiện chủng tử để hình thành một thói quen tâm linh, dần dần chuyển hoá mình thành tính cách vô ý thức mà khởi đầu của hành động bằng một cách có ý thức. Nghiệp trong đạo Phật chẳng qua không ngoài cái thói quen tâm linh này của ý chí in sâu vào tính cách. Phật giáo cho nghiệp là ý chí tích tụ kinh nghiệm dần trở thành tính cách vô ý thức. Đây là chỗ giống nhau của giáo dục với nghiệp trong đao Phật. Hơn nữa, nghiệp y vào tự lực tự nội mà hình thành nghiệp mới tương lai, thì tự bản chất của nó đã có đủ tính cách tồn tại và ý chí sáng tạo rồi. Nhưng ở đây lại là tích tụ thiện nghiệp bằng thiền quán tự nội, bằng nỗ lực bản thân và trí tuệ, thì cái đích đạt được không dừng ở nhân cách và thế trí, mà là giác ngộ thánh trí, vô ngã từ bi, thành Phật.

Trong đời sống tự nhiên cũng vậy, một đàn nai đang gặm cỏ, bỗng cả đàn bật chạy mặc dù có con hổ còn đang ở rất xa. Do đấu tranh sinh tồn đã hình thành vô ý thức - bản năng. Đó là do có điểm cảnh tỉnh trên vỏ đại não. Chúng ta đều biết, có nhiều loại chim chọn mùa để sinh sống, cá đổi vùng để sinh sản. Và trong thực nghiệm đã minh chứng: Người ta dùng con chó làm vật thử nghiệm; nó chỉ được ăn sau khi người ta đánh một hồi chuông, cứ như thế nhiều lần. Về sau, người ta chỉ đánh chuông mà không cho con chó ăn, vậy mà con chó vẫn chảy dãi. Pavlov gọi đó là phản xạ có điều kiện. Chính những định hình hoạt động đó mang tính cách vô ý thức di truyền và hình thành nghiệp.

Đến đây, chúng ta đều có thể thống nhất nhận xét là, ý nghĩa to lớn của thuyết nghiệp trong đạo Phật là hình thành tính cách vô ý thức. Tính cách vô ý thức ở đây lại là việc tích tụ thiện nghiệp nhờ phương pháp toạ thiền, bằng thiền quán tự nội, có nghĩa là tự tâm, bằng trí tuệ và bằng nỗ lực bản thân. Như vậy, hình thành tính cách vô ý thức nhờ nỗ lực tự tâm là có ý nghĩa cực kỳ to lớn. Và toạ thiền là phương pháp tối hậu để dưỡng thành tính cách Phật.

Thiền là vô cầu. Toạ thiền là Niết-bàn. Đó là chắc chắn. Song, nói như thế có e rằng quá lý thuyết không? Đành rằng, không phải ai “kiến tánh” và “toạ thiền” cũng đều thành Phật cả, song đó là cách đi của chư Phật. Toạ thiền đúng cách, vừa sức, đều đặn thường nhật là khó. Nhưng nếu ai hình thành được thói quen tâm linh toạ thiền đều đặn, vừa sức, không gián đoạn, không bỏ dở, lâu dài, nhiều tháng năm... người ấy có ngôn ngữ thiền, người ấy có thiền vị. Toạ thiền đúng cách sau 10 phút đã giảm từ 17-20% mức tiêu thụ oxy. Để ứng dụng việc toạ thiền cho học sinh-sinh viên, những người làm việc bằng trí óc cũng như trong các ngành học thuật khác có thói quen toạ thiền hằng ngày như mặc áo, ăn cơm, đọc báo, đi làm... mỗi ngày một lần từ 20-30 phút là đủ. Thói quen này là định hình hoạt động hình thành tính cách vô ý thức. Hành động vô ý thức này có lợi ích vô cùng to lớn cho một hành giả. Nó chuyển hóa thân xác của hành giả trở nên sung mãn, linh hoạt; tâm thức luôn được ổn định, thăng bằng để sẳn sàng làm tốt một công việc được chỉ định tiến hành.

Đối với một Phật tử, tình thần thiền là vô cầu, liệu có thể hiểu được không?

Một Phật tử thuần thành hoặc một thiền sinh được thầy của mình trao cho một công án như: “Tiếng vỗ của một bàn tay”. Hàng ngày sau những giờ lao động, Phật tử hay thiền sinh đó sớm hôm toạ thiền, quán tưởng công án. Phát Bồ-đề-tâm, anh siêng năng chăm chỉ tập trung quán tưởng. Tập trung đến mức như anh đang đấu kiếm trước đối thủ của mình. Anh thật căng thẳng, mệt mỏi, cùng cực quẩn bách, khổ đau nhiều tháng năm... Với tấm lòng siêng năng của anh, rồi cơ duyên cũng đến, anh bừng tỉnh ngộ (kiến tánh).

Chúng ta thử hình dung, có một vị thiền sư sống ở một ngôi chùa hẻo lánh, vắng bóng người qua lại, hầu như không giao tiếp với ai. Ngài toạ thiền thường nhật như ăn, thở, ngủ, thải... không phải dùng đến bất cứ một sự cố gắng nào, chân thật và hồn nhiên... quên cả tháng ngày trôi... Như thế, chắc ngài sẽ đắc đạo.

Tọa thiền là một phưuơng pháp. Nhập thiền là một trạng thái, đó là trạng thái phản tỉnh vô niệm. Ý thức chủ động quyết định việc toạ thiền một cách tự nguyện, thường xuyên, dần dần hình thành một thói quen tâm linh đã dắt dẫn cơ thể lẫn tâm thức đến một trạng thái vô thức. Vô thức nhờ toạ thiền do ý thức quyết nên gọi là vô thức hữu thức, hay vô thức tâm linh. Đây là trạng thái của một cơ thể, có thân thư giãn cao độ, thư giản đến mức thật yên và thật tĩnh, thân như bị xoá hết: “Thân như giọt nước thể như chuông”. Còn tâm thức lại đạt đến trạng thái rỗng lặng cao độ, rỗng lặng đến mức không còn một làn sóng tạp niệm nào, tâm vô niệm: “Tâm hư tịch tĩnh”. Thân vong tâm hư là một trạng thái của một sinh thể cực kỳ mẫn cảm, một sinh thức trực giác linh diệu. Đó là “trạng thái không còn mối tương quan với không gian, không còn mối tương quan với thời gian” hay là “trạng thái tuyệt mạng tuyệt thể”. Đây là trạng thái không tuyệt mà diệu hữu. Đó là trạng thái của “sức tức thị không Bát-nhã Bồ-đề diệu dụng” để có thể hợp được với “Thế Tôn Pháp thân, Tát-bà-ha chân thể”. Đó chính là hình ảnh của đứcPhật Thích-Ca cùng vào ngồi toà sư tử với đức Phật Đa Bảo trong tháo bảy báu, là hình ảnh của Bodhi Svaha.

“Trạng thái chân không vô niệm” của một sinh thể trong thiền định là trạng thái của một cơ thể mà cả thân lẫn tâm có khả năng đồng hoá và dị hoá cao nhất, nhưng cơ thể cũng như tâm não lại tiêu hao năng lượng oxy ít nhất, mà vẫn duy trì được cơ thể ở trạng thái tâm sinh lý bình thường, cực mẫn cảm bén nhạy, trực giác thông sáng. Toàn thể cơ quan phủ tạng ở trong trạng thái đồng đẳng, tâm thức ở trong một trạng thái chính đẳng để sẵn sàng đón nhận những gì gọi là thánh thiện.

Còn toạ thiền ứng dụng trong đời thường nhằm hình thành một thói quen tâm linh trở thành tính cách vô ý thức đã giúp hành giả có một thân xác linh hoạt, một thức điền được chuẩn bị tốt nhất để sẵn sàng lãnh nhận những thiện căn chủng tử phát triển tốt đẹp.

Đối với những người Phật tử thuần thành, với các thiền sư thường xuyên quán Tứ niệm xứ, quán đến độ trở thành hiệp nhất, thì giả dụ như: “Tiếng tăm và dục tình...” chỉ còn là danh từ khái niệm, là trạng thái của một thân xác hèn kém xấu xa, một tâm thức còn nhiều mê chấp, và thật là vô nghĩa, chẳng có chi đáng đắm luyến. Như vậy, thiền vô cầu là có thể hiểu được.

Nói như thế không có nghĩa là trong đời thường không thể toạ thiền. Bởi vì, đức Phật dạy: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”. Ngoài thế gian ra không có Phật, Phật ở ngay tại thế gian, Phật ở ngay trong ta. Ngoài ta không có giác ngộ, Thiền ở ngay trong đời thường như mặc áo, ăn cơm, cuốc vườn, trồng rau, đi, đứng, nằm, ngồi đều là Thiền cả. Buông bỏ nghĩa là hành đạo ngay trong đời thường mà vẫn xả ly, không chấp trước trên tinh thần vô ngã vị tha, xả ly tâm sai biệt, diệt trừ ác tập nhị nguyên... Như thế, thiền mới trở thành siêu việt. Đành rằng, toạ thiền là một việc khó nhưng nếu không thực hành toạ thiền thì không có kinh nghiệm trở thành tính cách vô ý thức, không những chỉ lấy đó mà thực hành mà còn cho ý chí tự thân đó là nghiệp rồi.

Cho nên trong sự nghiệp giáo dục, nếu đem ứng dụng thuyết nghiệp của nhà Phật thông qua việc thực hành toạ thiền, thì sự tu dưỡng tự lực, có nghĩa là phấn đấu nỗ lực tự tâm nhằm hình thành những thiện nghiệp chủng tử như: chủ động tự nguyện, chân thật hồn nhiên, kiên trì tập trung, có phương pháp... còn có một ý nghĩa cực kỳ to lớn. Có lẽ, đó cũng là mục đích có ý nghĩa chiến lược của giáo dục.

Việc toạ thiền đều đặn, đúng phương pháp, không gián đoạn, không bỏ dở và bí quyết thành công, dù chỉ 20 phút mỗi ngày cho cả cuộc đời; thì đối với học sinh, sinhviên và những người làm công việc khoa học kỹ thuật là đủ và có giá trị đích thực để chuyển hoá thân tâm. Thân xác trở nên bén nhạy, tâm thức với một thức điền đồng đẳng, trực giác, minh mẫn, thông sáng.

Nắm được ý nghĩa to lớn của thuyết nghiệp trong đạo Phật và thực hành thiền quán tự nội, toạ thiền thường nhật, nếu được đem ứng dụng cho những người làm lao động trí óc là một sự nghiệp vô cùng to lớn, nhất là đối với học sinh, sinh viên và các nhà làm công việc khoa học và nghệ thuật. Nó thực sự trở thành sự nghiệp của cả một dân tộc.

Toạ thiền đúng cách, vừa sức, đều đặn, không gián đoạn, không bỏ dỡ, lâu dài, nhiều tháng năm...l à một hành động tốt nhất để hình thành một “định hình hoạt động tâm linh”, hướng thiện và hướng thượng; và trong phạm vi thế tục, sáng tạo và thiên tài. Như thế chưa đủ để nói lên hiệu quả vĩ đại của thiền trong giáo dục hay sao?

T.V.H

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 62190)
Hấp hối có nghĩa là gần chết. Có nhiều từ đồng nghĩa cùng biểu đạt cho trạng thái này như đang lâm chung, thời gian cận tử, lúc sắp chết… Độ ở đây mang ý nghĩa chuyển hóa, giúp người vượt qua, giáo hóa cho người.
(Xem: 78593)
Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), sư Phước Nhân, một hành giả của thiền viện Phước Sơn, nói rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
(Xem: 81186)
Khi tập ngồi thiền, điều khó khăn trước tiên là phải làm ngưng cái đầu ồn ào của mình. Nhiều người, dù cố gắng, cũng không thể nào làm yên được những tạp niệm trong đầu mình.
(Xem: 75928)
Một Tăng đoàn Phật giáo hoạt động đúng phải gồm bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nữ cư sĩ và nam cư sĩ. Tất cả đều cần thiết như nhau để duy trì và hỗ trợ truyền thống và thực hành giáo pháp của Đức Phật.
(Xem: 18522)
Sân hận là loại cảm xúc thường gây khó cho nhiều người. Thí dụ khi bạn đang ngồi thiền, bỗng nhiên tâm sân khởi lên, và bạn nghĩ “Ồ không, tâm sân!”, -đó là thái độ phản kháng. Nhưng sẽ thế nào nếu bạn nghĩ, “Ồ tuyệt vời, tâm sân!” Bạn có thấy sự khác biệt không? Chúng ta thường có xu hướng dễ chấp nhận sự dễ chịu, nhưng ghét bỏ sự khó chịu.
(Xem: 19015)
Theravada (đọc như là tê-rê-va-đa), Học thuyết cuả các Trưởng lão, là một trường phái Phật giáo tiếp nhận giáo lý kinh điển từ Tipitaka, hay là kho tàng Thánh Điển Pali, mà theo như các học giả thường đồng ý với nhau rằng còn lưu lại được những ghi chép các giaó lý ban đầu cuả Đức Phật còn tồn tại với thời gian.
(Xem: 56472)
Trong suốt 45 năm giáo hóa, từ Thành đạo cho đến Niết Bàn, Phật quy tụ xung quanh hào quang của Ngài một số đệ tử cả xuất gia lẫn tại gia. Trong số này, những bậc xuất sắc ưu tú, chứng được thánh quả A La Hán gồm có 1250 vị. Đặc biệt có 10 vị mệnh danh là Thập Đại Đệ tử, trong 10 vị này mỗi vị đều có sở trường riêng, sở chứng riêng và đạo hạnh riêng.
(Xem: 17519)
Cái tinh thần chung của Phật là gì? Là tinh thần dắt dẫn, khuyến hóa chúng sanh biến đổi điều dữ ra điều lành, mê ra ngộ, khổ ra vui trong cảnh giải thoát Niết-bàn. Vậy bất cứ là kinh nào trong Tam tạng, dù mỗi kinh với mỗi sự trình bày khác nhau, nhưng nếu nhận có tinh thần giải thoát, có mục đích Niết-bàn trong đó tức chúng ta phải đem hết tinh thần khoáng đạt mà cố công tham cứu và học hỏi,
(Xem: 19077)
Được biết, xuất gia gieo duyên là một truyền thống lâu đời của các nước Phật giáo Nam tông như Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar và Sri Lanka - nơi Phật tử tại gia có thể thực hiện ước nguyện xuất gia, sống đời tu sĩ trong thời gian ngắn hạn 3 ngày, 7 ngày, 1 tháng, 3 tháng, 1 năm hoặc 3 năm. Theo đó, các Phật tử xuất gia gieo duyên tại thiền viện sẽ có thời khóa tu học như các chư Tăng tại thiền viện gồm học giáo lý, học kinh luật, ngồi thiền, tụng kinh, kinh hành, trồng cây, làm công quả...
(Xem: 18387)
Thuyết Vô Ngã chỉ tìm thấy trong Phật Giáo. Như vậy, thuyết Vô Ngã khiến cho Phật Giáo khác hẵn các tôn giáo khác. Bởi vì hầu hết các tôn giáo khác đều có sự tin tưởng ngược hẵn với thuyết Vô Ngã (Anatta). Thuyết Vô Ngã là thuyết nòng cốt hay thuyết cốt yếu của Phật giáo
(Xem: 113464)
Cái hại của sự ngu si đối với chính mình, phá hoại chính công việc của mình là điều mà kinh Phật thường nói đến. Người ngu làm những việc mà họ không nhận thức được lợi hại, có khi như một kẻ mất trí, không biết mình đang làm gì. Trong Kinh Tiểu bộ, một loạt bài kinh phê phán ngu si tự phá hại việc làm của mình được đặt liền kề nhau.
(Xem: 117150)
Nếu ai làm cho mình bực thì mình qui trách cho người đó, kể như xong chuyện. Nhưng, Đức Phật thì Ngài nói đến những trạng thái tham sân. Trạng thái sân đến từ nhiều căn đế, mà chúng ta rất khó có thể tưởng tượng, nếu chúng ta không phải là người hiểu Phật Pháp
(Xem: 108828)
Phật giáo Nam Tông người Kinh phát triển chủ yếu tại hai thành phố lớn làSaigon và Thừa Thiên – Huế. Khoảng thập niên 30 của thế kỷ 20, Phật giáo Nam Tông người Kinh có mặt tại Sài Gòn – Gia Định. Đó là các nhà sư người Việt sang Campuchia tu học và trở thành những đoàn truyền giáo Phật giáo Nguyên Thủy đầu tiên tại Việt Nam bao gồm: hòa thượng Thiện Luật, hòa thượng Hộ Tông, hòa thượng Huệ Nghiêm.
(Xem: 18418)
Lý tưởng A-la-hán thường được xem là lý tưởng dẫn đạo cho Phật giáo Nguyên Thủy và lý tưởng Bồ tát là lý tưởng dẫn đạo của Phật giáo Đại Thừa. Nhận định này không hoàn toàn đúng, vì truyền thống Nguyên Thủy đã thể nhập lý tưởng Bồ tát trong giáo lý cơ bản và như vậy đã công nhận giá trị của quả vị A-la-hán và quả vị Phật đều là hạnh nguyện tu tập của người xuất gia. Vì thế, nói một cách chính xác hơn thì lý tưởng A-la-hán và lý tưởng Bồ tát là những lý tưởng dẫn đạo cho cả Phật giáo Tiền Nguyên Thủy lẫn Phật giáo Đại thừa
(Xem: 22282)
Tín ngưỡng dân gian cho rằng phóng sinh là một hành động thể hiện lòng từ bi và giải trừ được nghiệp chướng. Tục thả chim phóng sinh (sanh) vì thế rộn ràng nhất vẫn là vào các ngày rằm và ngày lễ vía, đặc biệt những ngày đầu năm mới.
(Xem: 18666)
Đạo Phật Việt Nam giống và khác nhau với đạo Phật Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng, Thái Lan, Miến Điện chỗ nào? Đạo Phật còn khác nhau về các ‘thừa’: Tiểu Thừa (Theravada- Nguyên Thuỷ), Đại thừa, Kim Cương thừa, các tông phái liên hệ đến cách hành trì: Thiền & Tịnh Độ. Ngay cả trong Thiền còn chia ra thành Lâm Tế & Tào Động & Đốn Ngộ & Tiệm Tu. Những người ngoài cửa hay mới vào cửa đã thấy nhức đầu và tẩu hỏa nhập ma
(Xem: 19067)
Tốt và xấu có phạm vi ý nghĩa khá rộng, và sự đánh giá tốt xấu về một người, một hành vi, còn tùy thuộc vào quan niệm xã hội, những quy định, quy ước và cả cách nhìn của mỗi cá nhân. Tốt và xấu là những tiêu chí để đánh giá đạo đức. Thông thường, một người tốt được nghĩ là một người có đạo đức, và ngược lại. Cũng như vậy, những hành vi được xem là tốt khi hành vi ấy tuân theo những nguyên tắc đạo đức nào đó; và ngược lại, những hành vi được coi là xấu khi chúng chệch ra khỏi những nguyên tắc đạo đức.
(Xem: 88343)
Phước đức dù cực khổ gieo tạo nhiều đời, nhưng do cái miệng tạo nghiệp, phê bình, chỉ trích, nói lời ác... thì trong giây phút cũng có thể tiêu tan.Cái miệng, lưỡi của người thế gian điều hại sẽ nhiều hơn điều lợi rồi. Tạo hóa sinh ra con người có hai lổ tai, nhưng chỉ có một cái miệng, cho nên phải nghe nhiều hơn nói, mới đúng với tự nhiên, được thân người là khó, có đầy đủ lục căn và miệng lưỡi trọn vẹn là phước đức quá rồi, hãy nhân vốn phước báu nầy mà gieo trồng thêm phước đức ra nữa, thì mới là người khôn, bởi vậy phải lo: Tu cái miệng là điều cần thiết nhất và xem như tu hơn nửa đời người rồi.
(Xem: 34227)
Trước hết phải nói rằng trong giới luật thuộc truyền thống Nguyên Thủy, không có giới cấm ăn thịt cá, mặc dầu có giới cấm sát sanh. Phật giáo Nguyên Thủy quan niệm rằng ăn cách nào cũng được, tùy duyên mà ăn cho có đủ sức khỏe để hành trì giáo pháp, ăn chay mà thân thể yếu đuối xanh xao, tinh thần bạc nhược thì rất tai hại, đường tu đạo đã không được tiến hóa mà còn trở ngại cho sự tu hành.
(Xem: 115446)
Việc đầu tiên của đức Phật sau khi giác ngộ là thành lập Tăng đoàn gồm những đệ tử xuất gia theo Ngài, những hiền nhân nay đây mai đó, những người từ bỏ tất cả để học Phật pháp và hoằng dương giáo lý giải thoát. Họ sống bằng cách đi khất thực từ nhà này đến nhà khác, và sở hữu của họ không có gì ngoài ba chiếc áo và một cái bình bát. Danh từ khất sĩ có từ đó. Khất Sĩ có nghĩa là khất thực và khất pháp, tức là xin vật thực của người đời để nuôi thân và xin Pháp của Phật để tu hành nuôi tâm.