- -Mục lục-Lời nói đầu.
- 01-Xuất xứ của lễ dâng y Kathina.
- 02-Y Kathina Không Thành Tựu và Thành Tựu.
- 03-Lễ Dâng Y Kathina Thời Xưa và Thời Nay.
- 04-Tấm Y Thường Dùng Với Tấm Y Kathina.
- 05-Quả Báu Của Paṭipuggalikadāna.
- 06-Phần nghi lễ dâng y Kathina của Thí chủ.
- 07-Phần nghi thức lễ thọ y Kathina của chư Tăng.
- 08-Biết rõ 5 quả báu của kathina.
- 09-Nghi lễ trao y Kathina của chư Tăng.
- 10-Nhận xét về lễ dâng y Kathina.
- 11-Vấn - Đáp Về Lễ Dâng Y Kathina.
07-Phần nghi thức lễ thọ y Kathina của chư Tăng
Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ tại một ngôi chùa hoặc một nơi núi rừng, hang động, đang tụ họp tại sìmà.
Sau khi tất cả các thí chủ đọc bài lễ dâng y kathina xong, người thí chủ thay mặt toàn thể thí chủ đem tấm y kathina đến gần vị Đại đức khoảng cách trong hatthapàda([1][3]) cung kính dâng tận tay vị Đại đức ấy. Vị Đại đức thay mặt chư Tỳ khưu Tăng thọ nhận tấm y kathina của thí chủ, đúng theo luật ([2][4]) của Đức Phật đã chế định. Sau khi thọ nhận tấm y kathina xong, Ngài Đại đức đem tấm y vào trình giữa chư Tỳ khưu Tăng.
Tấm y kathina được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch do đại thiện tâm hợp với trí tuệ của thí chủ, hiểu rõ phước thiện thanh cao của lễ dâng y kathina và quả báu cao quý của lễ dâng y kathina; cho nên, tấm y kathina ấy ví như từ trên hư không rơi xuống giữa chư Tỳ khưu Tăng, không dành riêng cho một vị Tỳ khưu nào cả.
Thí chủ đã dâng tấm y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, như vậy tấm y kathina ấy là của chư Tỳ khưu Tăng cả thảy, không phải của cá nhân Tỳ khưu nào.
Theo Tạng Luật mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng: Chư Tỳ khưu Tăng (Bhikkhusaṃgha) hoặc nhóm Tỳ khưu (ganabhikkhu) không thể làm lễ thọ y kathina được, Đức Phật chỉ cho phép một vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina mà thôi.
Tuyển chọn Tỳ khưu xứng đáng làm lễ thọ y kathina
Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa xong, đang tụ họp có mặt đông đủ tại sìmà, và tấm y kathina đã phát sinh đến chư Tỳ khưu Tăng rồi, chư Tỳ khưu Tăng tuyển chọn vị Tỳ khưu xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
Theo luật, tất cả chư Tỳ khưu Tăng thường dành ưu tiên cho Tỳ khưu có y cũ, y rách, Tỳ khưu ấy xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, như chú giải Tạng Luật dạy:
“Yo idha jiṇṇacìvaro, tassa dadeyya”([3][5]).
“Tại sìmà, chư Tỳ khưu Tăng đang tụ hội đông đủ, Tỳ khưu nào có y cũ, y rách, chư Tỳ khưu Tăng nên trao tấm y kathina cho vị Tỳ khưu ấy, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng”.
Trường hợp tại nơi sìmà, nếu không có vị Tỳ khưu nào có y cũ, y rách, thì chư Tỳ khưu Tăng nên trao tấm y kathina đến bậc Đại Trưởng Lão, bậc Đại Trưởng Lão hiểu biết rõ 8 chi pháp xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, như chú giải Tạng Luật dạy:
“Tena hi vuddhassa dadeyya”(6).
“Nếu không có vị Tỳ khưu có y cũ, y rách thì chư Tỳ khưu Tăng nên trao tấm y kathina đến bậc Đại Trưởng Lão xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng”.
Nếu trường hợp bậc Đại Trưởng Lão không chịu làm lễ thọ y kathina của chư Tăng thì chư Tỳ khưu Tăng trao tấm y kathina đến vị Đại Trưởng Lão bậc thấp theo tuần tự cho đến khi tuyển chọn được một vị Tỳ khưu xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
8 Chi Pháp
Vị Tỳ khưu xứng đáng làm lễ thọ y kathina cần phải hiểu biết đầy đủ 8 chi pháp như trong Tạng Luật, bộ Parivāra dạy:
“Kataṃehi aṭṭhahaṅgehi samannāgato puggalo bhabbo kathinaṃ attharituṃ. Pubbakaranaṃ jānāti, paccuddhāraṃ jānāti, adhiṭṭhānaṃ jānāti, atthàraṃ jānāti, màtikaṃ jānāti, palibodhaṃ jānāti, uddhāraṃ jānāti, ānisamsaṃ jānāti. Imehi aṭṭhahaṅgehi samannāgato puggalo bhabbo kathinaṃ attharituṃ”(7)
Tỳ khưu xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng cần phải biết đầy đủ 8 chi pháp là:
1- Pubbakaranaṃ jānāti: Biết công việc ban đầu như đo, cắt, may y, nhuộm thành tấm y xong trong ngày, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
2- Paccuddhāraṃ jānāti: Biết cách xả tấm y cũ của mình.
3- Adhiṭṭhānaṃ jānāti: Biết cách nguyện tấm y mới của chư Tăng.
4- Atthàraṃ jānāti: Biết cách làm lễ thọ kathina của chư Tăng.
5- Màtikaṃ jānāti: Biết 8 trường hợp mất quả báu kathina.
6- Palibodhaṃ jānāti: Biết 2 cách gắn bó, ràng buộc: chỗ ở và may y.
7- Uddhāraṃ jānāti: Biết cách tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xả y kathina cũ.
8- Ānisamsaṃ jānāti: Biết rõ 5 quả báu của kathina của chư Tăng.
Tỳ khưu biết rõ đầy đủ 8 chi pháp này, xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
Phần Giải Thích 8 Chi Pháp
1- Biết công việc ban đầu như đo, cắt, may y
Thời xưa, thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, làm lễ dâng vải may y kathina (kathinadussa) đến chư Tỳ khưu Tăng, cho nên, sau khi thọ nhận vải may y kathina xong, chư Tỳ khưu Tăng tuyển chọn một vị Tỳ khưu biết công việc ban đầu may thành tấm y. Công việc ban đầu may tấm y không phải việc riêng của vị Tỳ khưu ấy mà toàn thể chư Tỳ khưu không ngoại trừ vị nào, đều đến tụ họp chung lo đo, cắt, may thành một tấm y, nhuộm cho xong trong ngày hôm ấy, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, không thể để trễ sang ngày hôm sau.
Thời nay, phần đông thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, không làm lễ dâng vải may y kathina, mà đã may thành tấm y, rồi làm lễ dâng y kathina (kathinacīvara) đến chư Tỳ khưu Tăng. Cho nên, sau khi đã thọ nhận y kathina xong, (toàn thể chư Tỳ khưu không phải chung lo công việc may thành một tấm y nữa), chư Tỳ khưu Tăng tuyển chọn một vị Tỳ khưu xứng đáng, rồi hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā trao tấm y kathina của chư Tăng cho vị Tỳ khưu ấy để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.
2- Biết cách xả tấm y cũ của mình
Thời nay, thí chủ có đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, thường làm lễ dâng taṃ y: y saṃghāti, y uttarasaṅga, y antaravāsaka. Nếu có đủ 3 tấm y này, thì chỉ chọn 1 tấm nào là tấm y để làm lễ thọ y kathina, còn lại 2 tấm khác không phải y kathina, mà chỉ là những tấm y quả báu của kathina mà thôi.
* Nếu vị Tỳ khưu ấy muốn thọ y kathina của chư Tăng với tấm y saṃghāti, thì phải xả tấm y saṃghāti cũ của mình như sau:
“Imaṃ saṃghātim paccuddhārāmi”.
(Tôi xin xả bỏ tấm y saṃghāti này).
* Nếu vị Tỳ khưu ấy muốn thọ y kathina của chư Tăng với tấm y uttarasaṅga, thì phải xả tấm y uttarasaṅga cũ của mình như sau:
“Imaṃ uttarasaṅgam paccuddhārāmi”.
(Tôi xin xả bỏ tấm y uttarasaṅga này).
* Nếu vị Tỳ khưu ấy muốn thọ y kathina của chư Tăng với tấm y antaravāsaka, thì phải xả tấm y antaravāsaka cũ của mình như sau:
“Imaṃ antaravāsakaṃ paccuddhārāmi”.
(Tôi xin xả bỏ tấm y antaravāsaka này).
Vị Tỳ khưu muốn thọ y kathina với tấm y nào trong 3 tấm y trên, thì phải xả tấm y cũ ấy của mình.
3- Biết cách nguyện tấm y mới của chư Tăng
Vị Tỳ khưu đã xả tấm y cũ nào của mình rồi, thì nên nguyện tấm y mới ấy của chư Tăng, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng. Trước khi nguyện tấm y nào, vị Tỳ khưu cần phải làm dấu “kappabindum karomi” làm dấu vòng tròn bằng mắt con công bằng mực màu đen, hoặc màu xám hoặc màu xanh.
* Nếu vị Tỳ khưu đã xả tấm y saṃghāti cũ của mình xong rồi, thì nguyện tấm y saṃghāti mới của chư Tăng như sau:
“Imaṃ saṃghātim adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y saṃghāti này).
* Nếu vị Tỳ khưu đã xả tấm y uttarasaṅga cũ của mình xong rồi, thì nguyện tấm y uttarasaṅga mới của chư Tăng như sau:
“Imaṃ uttarasaṅgam adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y uttarasaṅga này).
* Nếu vị Tỳ khưu đã xả tấm y antaravāsaka cũ của mình xong rồi, thì nguyện tấm y antaravāsaka mới của chư Tăng như sau:
“Imaṃ antaravāsakaṃ adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y antaravāsaka này).
Vị Tỳ khưu đã xả tấm y cũ nào của mình rồi, thì nên nguyện tấm y mới ấy của chư Tăng, để làm lễ thọ y kathina với tấm y ấy.
4- Biết cách làm lễ thọ y kathina của chư Tăng
Vị Tỳ khưu ấy đã nguyện tấm y mới nào của chư Tăng xong rồi, thì làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y mới ấy như sau:
* Nếu vị Tỳ khưu đã nguyện tấm y saṃghāti xong rồi, thì làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y saṃghāti như sau:
“Imàya saṃghātiyà kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y saṃghāti này).
* Nếu vị Tỳ khưu đã nguyện tấm y uttarasaṅga xong rồi, làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y uttarasaṅga như sau:
“Iminà uttarāsaṅgena kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y uttarasaṅga này).
* Nếu vị Tỳ khưu đã nguyện tấm y nội gọi y antaravāsaka xong rồi, thì làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y nội gọi y antaravāsaka như sau:
“Iminà antaravāsakena kathinaṃ attharāmi”
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y antaravāsaka này).
Vị Tỳ khưu ấy chỉ được phép thọ y kathina của chư Tăng với một tấm trong 3 tấm y ấy mà thôi.
5- Biết 8 trường hợp mất quả báu của lễ Kathina
Sau khi đã làm lễ thọ y kathina và đã đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, nếu vị Tỳ khưu nào có 1 trong 8 trường hợp sau đây, thì vị Tỳ khưu ấy mất quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina.
5. 1 - Pakkaṃantika: Do từ bỏ ngôi chùa (chỗ ở cũ).
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem tấm vải phần của mình chưa đủ may thành tấm y, từ bỏ ngôi chùa cũ, hoặc nơi đã an cư nhập hạ cũ, với ý nghĩ rằng:
“Ta sẽ không trở lại ngôi chùa (chỗ ở) này nữa” bước ra khỏi ranh giới chùa (chỗ ở) cũ.
Như vậy, vị Tỳ khưu ấy mất quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina do từ bỏ ngôi chùa cũ.
5. 2 - Niṭṭhānantika: Do may y xong.
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem tấm vải chưa đủ may thành tấm y, đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc chỗ đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa mới khác và nghĩ rằng:
“Ta sẽ may y tại ngôi chùa này xong rồi không trở lại ngôi chùa (chỗ ở) cũ nữa”.
Như vậy, khi vị Tỳ khưu ấy may xong tấm y, đồng thời cũng mất quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina, do may y xong và không trở lại ngôi chùa cũ.
5. 3 - Sanniṭṭhānantika: Do quyết định không may y và cũng không trở lại.
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem tấm vải chưa đủ may thành tấm y, đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc chỗ đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa mới khác và nghĩ rằng:
“Ta sẽ không may y tại ngôi chùa này và cũng không trở lại ngôi chùa (chỗ ở) cũ nữa”.
Như vậy, vị Tỳ khưu ấy mất quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina, do quyết định không may y và cũng không trở lại ngôi chùa cũ.
5. 4- Nāsanantika: Do vải may y bị hư, bị mất.
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem tấm vải chưa đủ may thành tấm y, đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc chỗ đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa mới khác và nghĩ rằng:
“Ta sẽ may y tại ngôi chùa này và cũng không trở lại ngôi chùa (chỗ ở) cũ nữa” Vị Tỳ khưu ấy đang may y chưa xong, thì y của vị Tỳ khưu ấy bị hư, bị mất”.
Như vậy, vị Tỳ khưu ấy mất quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina, khi y bị hư, bị mất.
5. 5- Savanantika: Do nghe tin xả y kathina.
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem tấm vải chưa đủ may thành tấm y, đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc chỗ đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa mới khác may y xong sẽ trở lại ngôi chùa cũ. Khi vị Tỳ khưu ấy may y xong, nghe tin rằng:
“Ngôi chùa cũ mà mình đã an cư nhập hạ, chư Tỳ khưu Tăng đồng tâm nhất trí hành Tăng sự tụng Ñattidutiyakaṃmavācā xả y kathina rồi”.
Như vậy, vị Tỳ khưu ấy hết quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina, do nghe tin tại ngôi chùa cũ chư Tỳ khưu Tăng hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xả y kathina xong rồi.
5. 6- Āsāvacchedika: Do mất hy vọng được y.
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc chỗ đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa mới khác với hy vọng rằng:
“Tại ngôi chùa này, ta sẽ hy vọng có thí chủ dâng y và không trở lại ngôi chùa cũ”.
Khi vị Tỳ khưu ấy đến ngôi chùa mới ấy, với hy vọng có được y, nhưng không được y như đã hy vọng.
Như vậy, vị Tỳ khưu ấy mất quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina, do mất hy vọng được y.
5. 7- Sìmàtikkaṃantika: Do quá hạn thời gian hưởng quả báu của kathina.
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem vải may y đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc chỗ đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa mới khác và nghĩ rằng:
“Ta may y tại ngôi chùa này xong, sẽ trở về ngôi chùa cũ.”
Khi vị Tỳ khưu ấy may xong y, trở về ngôi chùa cũ, thì thời gian đã qua rằm tháng 2.
Như vậy, thời gian mà vị Tỳ khưu ấy hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina đã hết.
5. 8- Sahubbhàra: Do cùng chư Tỳ khưu Tăng hành Tăng sự tụng Ñattidutiyakaṃmavàca xả y kathina.
Trường hợp vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem vải may y đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc chỗ đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa mới khác và nghĩ rằng:
“Ta may y tại ngôi chùa mới này xong, sẽ trở về ngôi chùa cũ.”
Khi vị Tỳ khưu ấy may xong y, trở về ngôi chùa cũ đồng thời cùng với chư Tỳ khưu Tăng hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xả y kathina tại ngôi chùa cũ.
Như vậy, vị Tỳ khưu ấy hết hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina cùng với chư Tỳ khưu Tăng tại nơi chùa cũ.
Đó là 8 trường hợp mất quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina.
6- Biết 2 cách gắn bó, ràng buộc: Chỗ ở và may y
Gắn bó, ràng buộc có 2 cách:
6. 1- Àvasapalibodha: Gắn bó, ràng buộc chỗ ở nơi mà mình đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại ngôi chùa (cũ), nơi núi rừng, hay hang động...
6. 2- Cìvarapalibodha: Gắn bó, ràng buộc vào sự may y.
* Gắn bó, ràng buộc chỗ ở như thế nào?
Vị Tỳ khưu nào đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, tại một ngôi chùa hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hang động, vv… được làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã được nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng. Nếu vị Tỳ khưu ấy có phận sự phải đi đến ở một nơi khác, dù thời gian mau hoặc lâu mà tâm của vị Tỳ khưu ấy vẫn luôn luôn nghĩ sẽ trở lại ngôi chùa cũ hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hang động cũ, vv... mà mình đã từng an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa. Vị Tỳ khưu ấy vẫn hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu của lễ kathina.
Như vậy, gọi là vị Tỳ khưu gắn bó, ràng buộc nơi chỗ ở cũ đã an cư nhập hạ.
* Gắn bó, ràng buộc vào sự may y như thế nào?
Vị Tỳ khưu nào đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy đem tấm vải chưa đủ may thành tấm y, đi khỏi ngôi chùa cũ, hoặc nơi đã an cư nhập hạ cũ, đến ngôi chùa (chỗ ở) mới khác, để may cho thành tấm y, hoặc hy vọng sẽ có thêm vải để may cho thành tấm y.
Như vậy gọi là gắn bó, ràng buộc vào sự may y.
Nếu vị Tỳ khưu ấy đã cắt, may, nhuộm tấm y xong hoặc tấm y bị cháy hoặc bị mất, không có hy vọng có được tấm y mới nữa, thì vị Tỳ khưu ấy không còn gắn bó, ràng buộc vào sự may y nữa.
Thời nay, phần đông thí chủ không dâng vải may y đến chư Tỳ khưu Tăng, mà làm phước thiện cúng dường đến chư Tỳ khưu những tấm y đã may sẵn. Cho nên, chư Tỳ khưu không phải vất vả, cực nhọc lo cắt, may, nhuộm y nữa. Do đó, vị Tỳ khưu không còn gắn bó, ràng buộc vào sự may y nữa, chỉ còn gắn bó, ràng buộc nơi chỗ ở mà thôi. Vị Tỳ khưu nào còn gắn bó, ràng buộc nơi chỗ ở, vị Tỳ khưu ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina của chư Tăng, cho đến ngày rằm tháng 2, mới hết thời hạn quả báu của lễ kathina.
7- Biết cách tụng Ñattidutiyakaṃmavācā xả y kathina cũ
Xả y kathina có 2 trường hợp:
7. 1- Sahubbhàra: Vị Tỳ khưu may y xong từ một ngôi chùa khác trở về ngôi chùa cũ (chỗ mà vị Tỳ khưu đã an cư nhập hạ) đúng lúc cùng chư Tỳ khưu Tăng hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xả y kathina của chư Tăng, trường hợp này ở trong trường hợp thứ 8, Tỳ khưu hết hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina.
7. 2- Antarubbhàra: Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đang ở tại ngôi chùa mà tất cả chư Tỳ khưu Tăng đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và đã đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, đang hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina chưa đến ngày rằm tháng 2, (chưa hết thời hạn quả báu của lễ kathina). Trong ngôi chùa này, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng tâm nhất trí tụ hợp tại sìmà hành Tăng sự tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xả y kathina cũ, để thọ y kathina mới không phải thời.
Trường hợp này, trong Tạng Luật, phần Bhikkhunìvibhaíga, tích chuyện được tóm lược như sau:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana của Ông phú hộ Anàthapindika, gần kinh thành Sàvatthi, có một trường hợp như sau:
Tena kho pana samayena aññatarena upàsakena samghaṃ uddissa vihàro kàràpito hoti. So tassa viharassa mahe ubhatosaṃghassa akàlacīvaraṃ dàtukàmo hoti. Tena kho pana samayena ubhatosaṃghassa kathinaṃ atthataṃ hoti.
Àtha kho so upàsako samghaṃ upasaíkaṃitvà kathinuddhāraṃ yàci. Bhagavato etaṃatthaṃ àrocesuṃ. Atha kho Bhagavà etasmiṃ nidàne etasmiṃ pakarane dhammiṃ kathaṃ katvā bhikkhū āmantesi: “Anujànàmi Bhikkhave kathinaṃ uddharituṃ, …”[4]
Ý nghĩa:
Khi ấy, một người cận sự naṃ cho người xây cất một ngôi chùa xong, người ấy tổ chức lễ khánh thành ngôi chùa có nguyện vọng dâng y không phải thời (akàlacìvara) đến chư Tỳ khưu Tăng hai phái: chư Tỳ khưu Tăng và chư Tỳ khưu ni Tăng, khi ấy, chư Tỳ khưu Tăng hai phái đã làm lễ thọ y kathina xong rồi, người cận sự naṃ đến hầu đảnh lễ chư Đại đức Tăng, kính xin quý Ngài xả y kathina cũ. Chư Tỳ khưu đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, bạch với Đức Thế Tôn về lời yêu cầu của người cận sự naṃ ấy. Khi ấy, trong trường hợp này, nhân dịp ấy, Đức Thế Tôn thuyết pháp giảng dạy chư Tỳ khưu Tăng xong, Ngài gọi chư Tỳ khưu dạy rằng:
“Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép các con xả y kathina, …”
Hành Tăng Sự Xả Y Kathina
Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng tâm nhất trí tụ họp tại sìmà, một vị Tỳ khưu luật sư rành rẽ cách tụng Ĩattidutiyakaṃmavācā xả y kathina của chư Tăng như sau:
“Sunàtu me Bhante Saṃgho, yadi Saṃghassa pattakalaṃ, Saṃgho kathinaṃ uddhareyya, esa natti.
Sunàtu me Bhante Saṃgho, Saṃgho kathinaṃ uddharati, yassāyasmato khamati, kathinassa uddhàro, so tunhassa, yassa nakkhamati, so bhàreyya.
Ubbhataṃ Samghena kathinaṃ, khamati Saṃghassa, Tasmā tumhì. Evametaṃ dhàrayàmi”
Ý nghĩa:
Kính bạch chư Đại đức Tăng, kính xin chư Tăng nghe rõ lời tuyên ngôn của con. Nếu việc hành Tăng sự hợp thời đối với chư Tỳ khưu Tăng. Kính xin chư Tăng xả y kathina. Đó là lời tuyên ngôn, kính bạch quý Ngài được rõ.
Kính bạch chư Đại đức Tăng, kính xin chư Tăng nghe rõ lời thành sự ngôn của con. Chư Tăng xả y kathina, vị Tỳ khưu nào hài lòng sự xả y kathina, xin vị Tỳ khưu ấy ngồi im lặng; vị Tỳ khưu nào không hài lòng sự xả y kathina, xin vị Tỳ khưu ấy phát biểu lên giữa chư Tăng.
Chư Tỳ khưu Tăng đã xả y kathina rồi, chư Tỳ khưu Tăng đều hài lòng, vì vậy, quý Ngài ngồi im lặng. Con xin ghi nhận trạng thái hài lòng bằng cách im lặng ấy.
(Hành Tăng sự xả y xong)
Sau khi chư Tỳ khưu Tăng đồng tâm nhất trí hành Tăng sự tụng Ĩattidutiya-kaṃmavācā xả y kathina của chư Tăng xong, kể từ đó về sau cho đến ngày rằm tháng 2, tất cả chư Tỳ khưu Tăng trong ngôi chùa ấy mất hết quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina của chư Tăng.
Xả và Không Nên Xả Y Kathina Của Chư Tăng
* Trường hợp nào nên xả y kathina của chư Tăng?
Trong ngôi chùa đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, nhưng những tấm y phát sinh trong dịp lễ kathina này quá ít, nên phần đông chư Tỳ khưu không có đủ tấm y để mặc, chịu cảnh thiếu thốn y. Nếu có thí chủ phát sinh đức tin trong sạch nơi Taṃ Bảo, có ý nguyện muốn làm lễ dâng y kathina không phải thời (akàlacìvara) cùng với rất nhiều y phụ đến chư Tỳ khưu Tăng một cách đầy đủ, tất cả chư Tỳ khưu Tăng trong ngôi chùa hội họp đông đủ tại sìmà, không thiếu vị Tỳ khưu nào, đồng tâm nhất trí xả y kathina của chư Tăng.
Sau khi đã xả y kathina của chư Tăng xong rồi, chư Tỳ khưu Tăng mất hết quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina của chư Tăng. Và chư Tỳ khưu Tăng có thể thọ nhận y kathina mới cùng với các y phụ của thí chủ, cốt để cho tất cả chư Tỳ khưu có được đầy đủ y, đồng thời giữ gìn được đức tin trong sạch của thí chủ sau.
Như vậy, trường hợp tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng xét thấy rằng: Lễ thọ nhận y kathina của thí chủ lần trước, những tấm y là quả báu phát sinh trong lễ kathina ấy quá ít, cho nên phần đông chư Tỳ khưu không có đủ y để mặc; và nếu thọ nhận y kathina của thí chủ lần sau, thì phần đông chư Tỳ khưu có được đầy đủ y mặc, cho nên tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng tâm nhất trí xả y kathina của thí chủ trước, để thọ y kathina của thí chủ lần sau.
Nếu trường hợp tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng xét thấy rằng: lễ thọ nhận y kathina của thí chủ lần trước, những tấm y là quả báu phát sinh trong lễ kathina ấy, tất cả chư Tỳ khưu cũng có được y mặc, và nếu thọ nhận y kathina của thí chủ lần sau, những tấm y là quả báu phát sinh trong lễ kathina cũng bằng lần trước, thì tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng tâm nhất trí có thể xả y kathina của thí chủ trước, để thọ y kathina của thí chủ sau, cốt để giữ gìn đức tin trong sạch của thí chủ sau.
* Trường hợp nào không nên xả y kathina của chư Tăng?
Trường hợp tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng xét thấy rằng: lễ thọ nhận y kathina của thí chủ lần trước, những tấm y là quả báu phát sinh trong lễ kathina ấy, tất cả chư Tỳ khưu có được y mặc đầy đủ, và nếu thọ nhận y kathina của thí chủ lần sau, những tấm y là quả báu phát sinh trong lễ kathina ít hơn lần trước, thì tất cả chư Tỳ khưu Tăng không nên xả y kathina của chư Tăng, để cho chư Tỳ khưu được quyền hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina của chư Tăng cho đến ngày rằm tháng 2, hết thời hạn quả báu kathina.
4 Chú y: Để buổi lễ thọ y kathina được thành tựu, tấm y kathina mà thí chủ chưa kính dâng đến tận tay của vị Đại Trưởng Lão. Tỳ khưu không được đụng chạm đến tấm y kathina ấy và cũng không được phép dời tấm y kathina ấy sang chỗ khác. Nếu vị Tỳ khưu nào có tác ý đụng chạm đến tấm y kathina ấy, vị Tỳ khưu ấy bị phạm giới (durupacinnadukkata). Và nếu vị Tỳ khưu nào có tác ý dời tấm y kathina sang chỗ khác, vị tỳ khưu ấy bị phạm giới (uggahitakadukkata) tấm y kathina ấy không hợp theo luật. Dù thí chủ dâng tấm y kathina ấy đến chư Tỳ khưu tăng, nhưng vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina của chư Tăng không thành tựu, bởi vì tấm y kathina không còn hợp theo luật. (căn cứ theo điều giới Dantaponasikkhàpada).
6 Chú giải Tạng Luật, bộ Mahàvagga, phần Kathinakkhandha.
7 Vinayapitaka, bộ Parivàra, phần Pubbakarananidànàdivibhàga.