Phần 04
Ngày trở về nhà
Trước bữa ăn sáng
Không cần biết khóa tu của bạn kéo dài bao lâu, ngày cuối của khóa tu bao giờ cũng có những tính chất rất đặc biệt. Sự thử thách lúc này là giữ cho tâm ý mình ở với bất cứ một sinh hoạt nào đang diễn ra trong giờ phút này. Tâm ta sẽ phóng về tương lai, dự tính và mong đợi lúc ra về. Trong thời ngồi thiền buổi sớm mai trước giờ ăn sáng, bạn có thể dùng ý thức về tâm-phóng-về-tương-lai này để làm đối tượng thiền quán.
Hãy ngồi tự nhiên như những buổi ngồi thiền trước, với tác ý muốn chú ý đến hơi thở, hoặc cảm giác ở thân, hoặc âm thanh - bất cứ một thực tại nào mà bạn đang kinh nghiệm. Hãy cảnh tỉnh và ghi nhận những tư tưởng khởi lên thường xuyên “Chút nữa là ra về rồi,” hoặc là “Không biết mình nên thu dọn đồ bây giờ hay chờ lát nữa?” Những tư tưởng ấy không phải là vấn đề. Chúng khởi lên tự nhiên vào ngày ta ra về.
Chánh niệm về những tư tưởng này sẽ giúp ta ghi nhận được chúng mà không bị dính mắc. Bạn nên nhớ rằng, ta không thể về nhà trước khi ta ra về, và thời gian nào bạn chọn để xếp đồ vào va-li thì có lẽ hoàn toàn không quan hệ gì hết.
Thiền tập trong khi ăn
Ăn là một việc rất khoái cảm, kỳ diệu và vô cùng phức tạp. Tâm ta, khi được tiếp xúc với những gì ưa thích, nó sẽ tự động chuyển sang số cao. Và khi chánh niệm của bạn đủ mạnh, việc ăn có thể khai mở cho bạn thấy rõ những chân lý về sinh diệt. Và hơn nữa, nó rất thú vị.
Hãy biến trọn bữa ăn của mình thành một sự thực tập. Khi thức ăn đã sẵn sàng, bạn hãy kinh nghiệm nó một cách thật trọn vẹn trước khi ăn. Tất cả những giác quan đều có thể tham gia vào bữa ăn. Bạn có thể nhìn thức ăn cho rõ, ngửi và chạm vào.
Nếu như thức ăn dòn, bạn có thể nghe được nó trong khi nhai!
Nếu đó là một món ăn bạn thích, có lẽ bạn sẽ chảy nước bọt, và sự ham muốn khởi lên. Có thể bạn nghĩ: “Tại sao tôi phải ngồi đây mà quán tưởng về nó làm gì? Tôi chỉ muốn ăn thôi!”
Bạn hãy ăn đi. Khi nào sẵn sàng, bạn cứ việc ăn. Nhưng bạn hãy ăn thật chậm, vì cái ăn rất là phức tạp, và chúng ta muốn nhận diện nó cho thật rõ.
Hãy chú ý thật kỹ vào động tác nhai. Thấy được rằng, mùi vị của thức ăn biến đổi giữa khi ta mới cắn vào và cuối cùng khi ta nuốt. Nhưng ở đây không phải ta muốn phân loại mùi vị khác nhau của nó. Điều mà ta muốn là ghi nhận được sự biến đổi. Hãy chú ý đến cái ham muốn của ta lúc ban đầu, nó cũng biến đổi. Khi mới bắt đầu, ta rất thèm ăn. Trong khoảng thời gian đang ăn, cái thèm ấy tự nhiên biến mất. Cái tuệ giác của đức Phật về “chư hành vô thường” có thể áp dụng cho sự thèm ăn cũng như bất cứ hiện tượng nào khác trên cuộc đời này.
Nhưng bạn hãy nhớ thưởng thức món ăn của mình. Đôi khi người ta tưởng tượng rằng trong các khóa tu những bữa ăn phải rất là đạm bạc và nhỏ nhoi. Tôi thì hoàn toàn nghĩ ngược lại. Vì ăn là một hoạt động đòi hỏi sự tham dự của toàn thân và hết mọi giác quan, ta hãy sử dụng những bữa ăn trọn vẹn cho sự thực tập của mình.
Thiền quán về giới luật
Theo thông lệ, trong mỗi khóa thiền tập chúng ta có đọc tụng Năm giới. Đây là năm lời hướng dẫn cho một lối sống có hạnh phúc và tuệ giác theo lời dạy của Phật. Riêng tôi thường trình bày Năm giới này lại thành một giới: Nguyện nuôi dưỡng, phát triển tuệ giác và biểu hiện thành lòng bao dung và tâm từ.
Tôi thích trình bày giới luật ở cuối mỗi khóa tu, khi người ta chuẩn bị trở về và tiếp tục cuộc sống thường ngày. Giới luật không có gì là bí mật hay khó hiểu cả. Theo tôi thì chúng là sự biểu hiện của tuệ giác trong cách hành xử đối với người chung quanh. Tâm tỉnh giác là điều kiện tiên quyết cho một đời sống có giới luật.
Tôi bắt đầu học được bài học về sự liên hệ giữa tâm tỉnh giác và đời sống có tuệ giác khoảng 23 năm về trước, khi tôi dạy môn Hatha-yoga ở trường Đại học Martin. Mỗi ngày tôi dạy từ 4 giờ chiều cho đến 7 giờ tối. Khi tôi kể cho người khác nghe về giờ dạy của tôi thì họ nói: “Như vậy có khó cho cô khi phải rời nhà trong thời gian đó không?” Vì tôi còn 4 đứa con nhỏ còn ở nhà. Họ nói: “Đó là thời gian bận rộn nhất trong ngày của một bà mẹ, sao cô có thể làm được hay vậy?”
Thật ra, tôi cũng đã có khó khăn lắm đấy chứ! Vì tôi phải đi đón mấy đứa con từ trường, giúp chúng làm bài tập, chở chúng đi tập bơi hay đến một nơi nào đó, trước khi tôi đi dạy. Tôi thường có nhiều lúc chạy ra cửa mà trong lòng bực tức: “Đáng lẽ mấy đứa nó phải về nhà sớm hơn một chút!... Nó phải nhớ mang bài tập về chứ để quên ở trường bắt mình phải vòng lại lấy!... Không đứa nào chịu nghe mình!” Và cũng đôi khi tôi vừa đi mà trong đầu cứ bận rộn trách móc đủ thứ về những gì mà mấy đứa con tôi đáng lẽ nên làm.
Khi đến lớp dạy, tôi tự nghĩ: “Mở đầu dạy Hatha-yoga trong tâm trạng bực tức như thế này thì chẳng đúng chút nào.” Nhưng tôi cũng không thể nói với học trò rằng: “Đầu óc tôi bây giờ lung tung lắm!” Cho nên tôi cứ giả vờ và cứ làm đại trong vòng 15 phút đầu. Tôi bắt đầu bằng những tư thế yoga, mà thật ra đó là những động tác chánh niệm. Tôi chú ý đến những kinh nghiệm của chính mình và diễn tả lại cho những học trò của tôi, để họ có thể dễ dàng thực tập theo. Tôi nói những lời như là: “Đưa hai cánh tay thẳng ra hai bên, ngang với vai, chú ý đến những cảm giác nào đang có mặt ở hai cánh tay, ở bàn tay, và ở đôi vai của mình...” và trong đầu tôi thì suy nghĩ: “Nó ráng mà nhớ mang bài tập về ngày mai, không thì biết tay!” trong khi vẫn tiếp tục nói: “...từ từ bỏ hai tay xuống theo vị trí cũ, cảm nhận mọi cảm giác ở hai cánh tay, thở một hơi sâu vào ra.”
Nếu tôi thực tập hết lòng, tôi khám phá ra rằng chỉ một lát sau, dường như trong tôi có một gút mắt tự động được tháo gỡ. Tự nhiên trong tôi có một tuệ giác khởi lên: “Nó mới có tám tuổi thôi! Nó đâu có thèm quan tâm gì đến chuyện làm bài tập! Mà nó cũng đâu ý thức gì về vấn đề mình đi dạy ở đây đâu. Hãy để cho nó như vậy. Đã sao đâu nào!” Và tôi thật sự có một sự cảm thông.
Trước khi có được sự hiểu biết và cảm thông ấy, tâm tôi vô cùng bối rối: “Mình sẽ bị trễ. Mình sẽ không thể dạy có hiệu quả. Còn ai tin cậy vào mình nữa?” Nỗi sợ làm bấn loạn tâm ta. Và khi tâm ta an tĩnh và biết chú ý, ta sẽ có thể bắt đầu nhìn mọi việc một cách có tuệ giác hơn.
Chữ tuệ giác có thể nghe hơi to tát - có vẻ như là một sự hiểu biết xuyên suốt các thời đại, hay là một tri thức vĩ đại về nguồn gốc của vũ trụ này. Tôi thì chỉ nghĩ tuệ giác có nghĩa đơn giản là hiểu được sự vật đúng như chúng đang thật sự hiện hữu. Đứa bé tám tuổi được hiểu như là một đứa bé tám tuổi! Khi chúng ta có tuệ giác, ta nhìn mọi việc một cách sáng suốt và chọn những đáp ứng thích hợp nhất. Và chánh niệm là yếu tố tạo nên sự khác biệt ấy.
Nếu bạn muốn, trong thời quán chiếu về giới luật này, hãy nghĩ về những người trong cuộc đời mình mà bạn sẽ tiếp xúc chiều nay hoặc trong những ngày sắp đến.
Chuẩn bị cho thiền quán về tâm từ
Bài tập đầu tiên chuẩn bị cho phép Từ bi quán là ban rải tình thương đến cho chính mình, và phương cách để thực hiện việc ấy là nghĩ đến những điều hay đẹp mình đã từng làm. Đức Phật dạy rằng, nguyên nhân gần nhất để làm phát khởi tâm từ là thấy được cái hay đẹp trong kẻ khác. Đi tham dự một khóa tu cũng là một việc làm rất hay đẹp, và bạn vừa mới làm đó! Trong đạo Phật, việc làm này được gọi là tích lũy công đức.
Cuối một khóa tu, tôi thường cảm thấy rất hân hoan, và có cảm tưởng như mình vừa mới vượt qua một hố sâu trên sợi dây thừng vậy. Nhất là vào những năm đầu tiên khi mới bắt đầu tu tập, mỗi khóa thiền tập đối với tôi giống như là những chuyến đi tàu lượn siêu tốc gây cảm giác mạnh ở Space Mountain trong công viên giải trí Disneyland vậy. Một khi chuyến tàu đã bắt đầu rồi thì ta không thể xuống được, cho đến khi nó chấm dứt. Hơn nữa, khi tàu chạy vào bên trong, tối thui, ta không thể thấy trước được những chỗ cong, những khúc ngoặt gấp hay lộn nhào phía trước. Không có cách nào để ta đoán trước mà chuẩn bị. Chỉ có một cách duy nhất là cứ phó mặc cho hoàn cảnh và rồi đối diện với nó.
Sau một thời gian, tôi buông bỏ hết những ước đoán của mình về những kinh nghiệm nào sẽ xảy ra trong một khóa tu. Có một lần, tôi đang cảm thấy rất hạnh phúc, cùng với khoảng ba, bốn mươi thiền sinh khác, xếp hàng từ từ đi vào thiền đường, trước khi chúng tôi giữ giới im lặng đánh dấu bắt đầu một khóa tu. Một người bạn đi cạnh tôi quay sang hỏi: “Sao, con gái của chị đã tìm được việc làm chưa?”
Tôi đáp: “Chưa, cháu vẫn còn đang đi tìm.”
“Việc làm trong ngành phát thanh ít lắm!” Anh ta nói như một lời an ủi, và cả hai chúng tôi đi vào thiền đường trong thinh lặng.
Căn phòng im lặng như tờ, nhưng tâm tôi lại bùng vỡ với những tư tưởng tự phê phán và trách móc. “Sao mình lại có thể là một bà mẹ hư đến vậy! Đáng lẽ mình không nên khuyến khích nó! Cái ngành truyền thanh thật bấp bênh vô cùng. Có lẽ vì chính mình cũng thích ngành ấy nên mới khuyến khích nó như vậy! Tại sao mình không nhắc nhở nó nên chọn một nghề bình thường như những người khác! Chắc mình nên lén trốn ra ngoài để gọi cho nó, bảo nó nên đổi nghề đi. Anh bạn ấy cũng ở trong nghành truyền thanh, chắc chắn anh ta biết rất rõ.” Tôi đang bị một cuộc tấn công tới tấp của các chướng ngại - nghi ngờ, bực tức, bối rối, cắn rứt, những lo nghĩ mà tôi chỉ tha thiết mong cầu là chúng biến mất. Tôi không nhớ là cơn bão tố ấy chấm dứt khi nào hay là vẫn tiếp tục cho đến cuối khóa tu. Nhưng tôi nhớ là mình vẫn ở lại cho đến cuối khoá tu ấy. Và tôi cảm thấy như một vị anh hùng.
Khi tôi biết và hiểu rõ hơn về con đường thực tập, cảm giác như đang mạo hiểm ấy của tôi cũng bắt đầu thuyên giảm. Có những khóa tu xảy ra rất dễ dàng, có những khóa hơi khó khăn. Tôi ý thức rằng cái tác ý muốn giữ chánh niệm mới là quan trọng. Nếu xếp hạng các khoá tu theo mức độ khó khăn sẽ là chuyện hoàn toàn không thích đáng. Khó hay dễ cũng chỉ là những kinh nghiệm mà thôi.
Và cho dù kinh
nghiệm của bạn như thế nào đi chăng nữa, bạn cũng đang tích luỹ công đức cho
mình.
Hỏi: Nhưng sao tôi không cảm thấy “công đức” gì cả? Mà thật ra, trong thời gian
thiền tập ở đây, tôi lại còn nhớ đến một vài chuyện không tốt mà tôi đã làm
trong quá khứ,
và cả những thói hư tật xấu của mình nữa.
Đáp: Có một điều luôn luôn xảy đến cho tôi trong những khoá thiền tập là đột nhiên tôi nhớ đến những điều không hay, những việc làm trong quá khứ mà bây giờ tôi hối tiếc. Nhưng bây giờ thì đó lại là một trong những điều mà tôi đã chấp nhận, tôn trọng và đôi khi còn vui hưởng nó trong thiền tập nữa.
Sự thật thì sự kiện ta chợt nhớ lại những vấn đề luân lý ấy là biểu hiện của một tâm thức bắt đầu trở nên an tĩnh. Khi nó xảy đến với tôi, tôi rất ngạc nhiên và hơi thất vọng. Tôi cảm thấy rất nản lòng vì nhận thấy biết bao nhiêu lần mình đã gây nên lỗi lầm, làm khổ kẻ khác và thiếu tình thương. Nhưng mặt khác, tôi cũng cảm thấy vững lòng hơn khi khám phá rằng nhờ sự thực tập này mà bây giờ tôi thấy rõ được những lầm lỗi của mình, để còn có cơ hội sửa đổi.
Trong khóa tu tôi cũng thong thả và không buồn bực vì mình không thể sửa được lỗi lầm ấy ngay tức khắc. Trong khóa tu tôi không viết, nhưng tôi có ghi lại một danh sách về những gì cần được sửa đổi khi tôi về nhà. Như vậy, tôi không cần phải gắng ghi nhớ chúng.
Nhớ lại những lỗi lầm xưa và cố gắng sửa đổi là bằng chứng rằng sự thực tập của ta có kết quả. Tôi tin rằng có lẽ vì vậy mà trong kinh gọi sự thực tập của chúng ta là một “con đường thanh tịnh”.
Bạn hãy ngồi lại một vài phút trong thinh lặng, thư giãn, thở một vài hơi sâu và nhẹ. Rồi bạn hãy đọc sang phần nói về phương pháp thực tập Từ bi quán.
Từ bi quán
Theo truyền thống, chúng ta chấm dứt một khóa tu chánh niệm bằng một thời thiền quán về tâm từ (metta). Thiền quán về tâm từ hay từ bi quán là một phương pháp thực tập có công thức và quy tắc rõ ràng để ban phóng tình thương của mình ra chung quanh.
Lúc đầu, tôi nghĩ người ta chọn phương pháp này để chính thức chấm dứt khóa tu, vì tất cả mọi người đều đang ở trong một trạng thái thư giãn và an lạc sau khóa tu. Cầu mong cho tất cả mọi loài, trong đó có ta, được an lành là một phản ảnh rất tự nhiên khi ta cảm thấy hạnh phúc. Nhưng bây giờ thì tôi hiểu rằng, cầu mong cho tất cả mọi loài, trong đó có ta, được an lành cũng là một đáp ứng đầy tình thương khi ta không cảm thấy hạnh phúc, mà nó cũng là một liều thuốc giải độc rất nhiệm mầu. Vì vậy, cho dù hoàn cảnh của bạn có như thế nào đi chăng nữa, hãy chấm dứt với một tâm từ.
Ngồi ở một nơi nào dễ chịu, trong một tư thế dễ chịu. Nhắm mắt lại và cảm nhận hơi thở. Nghĩ về một người nào bạn cảm thấy thương kính nhiều, và người ấy cũng rất thương bạn. Trong kinh gọi những người này là hạng “tôn đức”, vì ta cảm thấy nhiều lợi lạc nhờ sự có mặt của họ trong đời mình.
Chỉ nghĩ về họ thôi tâm ta cũng đã cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng. Phóng tâm từ, những lời chúc lành của ta đến những người này rất dễ. Bạn có thể tự đặt ra những lời chúc nào thích hợp với sự mong cầu của bạn:
Mong sao người được hạnh phúc.
Mong sao người được an vui...
Hãy tiếp tục lặp đi lặp lại những câu ấy trong tâm bạn. Có nhiều người thực tập niệm thầm một câu theo hơi thở vào và niệm thầm câu tiếp theo trong hơi thở ra. Ta không nhất thiết phải giới hạn mỗi câu một hơi thở như thế, nhưng bạn cũng nên thử thực tập theo phương pháp này xem có giúp thêm cho sự tập trung của mình hay không.
Khi ta có thể phóng những tư tưởng ấm áp đến một bậc tôn đức, điều đó sẽ giúp ta ban rải được những tư tưởng tương tự đến với chính mình. Tôi tin rằng, cũng vì lý do đó mà đức Phật khuyên chúng ta chỉ nên ban rải tâm từ đến chính mình sau khi đã hướng tâm từ đến những người mình rất kính yêu. Được như vậy, cho dù ta có cảm nhận về mình ra sao đi nữa, cái năng lượng tích cực của ta khi tiếp xúc với người ta kính mến sẽ bôi xóa được hết những do dự về việc ban rải tình thương đến cho mình. Hãy dùng cùng những lời mong cầu ấy:
Mong sao tôi được hạnh phúc.
Mong sao tôi được an vui...
Trong một vài phút, bạn hãy thay đổi giữa hai đối tượng ấy - cầu mong cho người mình kính mến, và cầu mong cho chính mình. Hãy cố gắng thực tập với trọn ý muốn và con tim, như là những lời mong cầu ấy sẽ trở thành sự thật, nhưng cũng đừng để trở nên căng thẳng vì nó. Quán tâm từ là một bài tập hạnh phúc. Hãy mỉm cười.
Sau một lúc, khi bạn cảm thấy đã sẵn sàng, hãy nghĩ đến những người nào bạn biết và thương. Các thiền sinh thường kể lại rằng, vừa khi họ bắt đầu khởi ý muốn cộng thêm những người khác ngoài hạng “tôn đức”, liền có một bản danh sách thật dài hiện ra ngay trong đầu, về những người cần được tiếp nhận sự ban rải tình thương này. Bạn có thể ở với hình ảnh của một người trong một thời gian, hay tiếp tục đi theo bảng danh sách ấy, mỗi người một lời mong cầu. Vẫn dùng cùng những lời ấy:
Mong sao anh (hay chị) được hạnh phúc.
Mong sao anh (hay chị) được an vui...
Một bước xa hơn nữa trong sự thực tập là nghĩ đến những người nào bạn đang có vấn đề hoặc gặp khó khăn. Khi tâm ta được an tĩnh và thư giãn nhờ nghĩ đến những người thân yêu, thường thì nó vẫn giữ được sự an tĩnh ấy, mặc dù ta bắt đầu nghĩ đến những người “khó thương”. Nếu bạn muốn thử nghiệm về hạng người “khó thương” này, bạn hãy thử thực tập trong vòng vài phút. Cũng cùng những lời ấy:
Mong sao anh (hay chị) được hạnh phúc
Mong sao anh (hay chị) được an vui...
Bạn sẽ tự biết khi nào thì mình sẵn sàng để thực tập quán tâm từ đối với hạng người đòi hỏi nhiều thử thách này. Nếu bạn nghĩ: “Tôi vẫn còn nhớ rõ những gì người ấy đã làm và đối xử với tôi, và tôi không thích - nhưng tôi đâu cần phải có ác ý đối với người ấy,” thì bạn đã sẵn sàng.
Còn nếu bạn nghĩ: “Trời ơi, ước gì mình đừng nhớ đến hắn - bây giờ thì mình lại hoàn toàn bực tức vì nhớ lại những việc hắn đã làm với mình,” thì bạn biết rằng mình chưa sẵn sàng để cộng người đó vào danh sách của mình. Hãy tiếp tục thực tập và để dành họ lại cho một ngày khác. Hãy trở lại phóng tâm từ đến các bậc tôn đức. Hoặc là theo bảng danh sách của những người thân yêu. Hay là ban rải tâm từ đến chính mình cho đến khi cảm giác bực mình ấy không còn nữa.
Khi nào bạn muốn, bạn cũng có thể tiếp tục thực tập từ bi quán trong khi đi. Nếu thời tiết cho phép, bạn hãy đi ra ngoài. Hãy đi dạo thoải mái, không cần phải theo một quãng đường ngắn như khi kinh hành, chọn nơi nào mà ta có dịp đối diện với những người khác. Nếu khóa tu của bạn trong thành phố, có lẽ bạn sẽ chạm mặt với rất nhiều người trong khi đi. Nếu bạn ở giữa khung cảnh của miền quê thì có lẽ bạn chỉ gặp những con bò hoặc dê... Nếu bạn ở rừng núi thì có lẽ chỉ có chim chóc và bướm. Tất cả những đối tượng ấy, con người, bò, dê, chim, bướm, đều có một mẫu số chung là “tất cả đều là chúng sinh”. Trong kinh Thương yêu (Metta Sutta), lời dạy của đức Phật về tâm từ, có những lời này thật đẹp: “Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... Nguyện cho mọi người và mọi loài đươc sống trong an lành và hạnh phúc, tâm tư hiền hậu và thảnh thơi.”
Hãy đi chừng nửa tiếng - hoặc lâu hơn nếu bạn muốn và hoàn cảnh cho phép - và cầu mong cho tất cả chúng sinh nào bạn gặp. Nếu như bạn cảm thấy cầu mong cho con bò được hạnh phúc có vẻ hơi buồn cười, bạn có thể sửa lại cho thích hợp:
Mong sao bạn được an lành.
Mong sao bạn được an lành...
Và thỉnh thoảng bạn cũng nên nhớ nói rằng:
Mong sao tôi được an lành.
Mục đích cao tột nhất của từ bi quán là thay thế những lời mong cầu có tính cách cá nhân bằng những mong cầu có tính cách phổ thông và bao trùm tất cả, trong đó mọi người và mọi loài đều được bình đẳng như nhau. Lặp lại câu niệm tâm từ theo truyền thống đối với mọi loài sẽ giúp tâm ta nghiêng theo chiều hướng ấy. Chấm dứt chuyến đi của bạn với một cái nhìn bao trùm tất cả, thấy tất cả và không lựa chọn một cái nào hết.
Mong sao mọi loài được hạnh phúc.
Mong sao mọi loài được an vui...
Điều quan trọng là gieo trồng
Kinh nghiệm sau khóa tu của bạn, dù thế nào cũng vẫn là đầy đủ. Ta hoàn toàn không có cách nào để thẩm định kết quả sự thực tập chánh niệm ngay lập tức. Cảm thấy sung sướng, hoặc ngay cả cảm thấy hạnh phúc, cũng không nhất thiết là một tiêu chuẩn. Có biết bao nhiêu cách để ta tạm thời biến đổi những kinh nghiệm của mình, mà chúng đâu nhất thiết dẫn đến tuệ giác. Và ngược lại, nếu bạn chấm dứt khóa thiền tập của mình trong tâm trạng buồn bã, cũng không nhất thiết đó là dấu hiệu thực hành sai. Có thể là bạn đã khám phá được một sự thật nào đó mà ta đã tự che giấu mình bấy lâu nay. Đó cũng là một sự tiến bộ.
Nếu bạn cảm thấy thư giãn, rất tốt. Nhưng nếu không, cho dù bạn có cảm thấy khó chịu, điều đó cũng có thể có nghĩa là bạn đang trên đường đi đến một tuệ giác mới nào đó. Ta không bao giờ có thể đoán biết được. Có lẽ bạn tự nghĩ: “Mình vừa mới quen với cách quan sát và nhận diện mỗi giây phút khởi lên và diệt đi, mà bây giờ thì phải trở về rồi!” Nhưng mỗi giây phút sanh diệt ở nhà cũng giống y như ở trong khóa tu. Bạn có thể trở về.
Bạn của tôi, cô Sharon Salzberg, ví sự thực tập chánh niệm cũng giống như một người làm ruộng gieo trồng những hạt giống xuống một thửa đất. Cô bảo: “Những hạt giống được vung rải ra khắp nơi. Có những hạt giống đâm chồi ngay tức thì, có những hạt giống khác, vì đất không đủ ấm hay thiếu nước, sẽ đâm chồi trễ hơn.” Tôi liên tưởng hình ảnh của cô Sharon đưa ra cũng giống như thửa vườn sau nhà của tôi. Tôi nghĩ đến những việc mình cần làm hằng ngày để chăm sóc và dọn dẹp cho thửa đất. Thực tập chánh niệm cũng giống như sự săn sóc liên tục cho mảnh đất của khu vườn chúng ta.
Một phần rất lớn trong sự thực tập là tác ý. Trong kinh điển thì tác ý thường được diễn tả như là “một khuynh hướng của tâm nghiêng về hướng tuệ giác.” Tôi tin rằng ngay chính hành động dành thì giờ ra để thực tập chánh niệm, chỉ việc làm thôi, là tâm ta đang “nghiêng về hướng tuệ giác”.
Chị chủ bút có gọi điện cho tôi hồi sáng này. Tôi nói với chị rằng năm nay tôi không thể trồng một thửa vườn lớn như mọi năm, vì tôi phải viết nhanh cho kịp kỳ hạn quyển sách này. Tôi nói: “Năm nay tôi chỉ có một miếng vườn nhỏ tạm thôi. Tôi mới vừa gieo trồng xuống những hạt giống cà tây và bí xanh.”
Chị ấy đáp: “Được rồi, điều quan trọng là ta có gieo trồng.”
Món quà quý giá của chánh niệm
Khi tôi dạy về chánh niệm, tôi thường giải thích với mọi người rằng chánh niệm rất khoa học. Tôi nói, đức Phật là một nhà tâm lý trị liệu siêu việt và ngài chỉ cho ta thấy rất rõ ràng, trung thực về đường lối hoạt động của tâm mình. Tôi thường chia sẻ: “Chánh niệm rất thực tiễn. Có mặt trong mỗi giây phút hiện tại với một sự hiểu biết trọn vẹn và biết an tĩnh chấp nhận là một lối sống rất hạnh phúc và mãn nguyện. Nó dễ hiểu. Nó hoàn toàn hợp lý. Không có gì là huyền bí cả.”
Nhưng câu chuyện không chỉ có vậy thôi. Ngày đầu của khóa tu này, tôi có trình bày rằng thực tập chánh niệm là một phương cách giúp ta trở nên có tuệ giác và tự nó cũng chính là tuệ giác. Tôi muốn kết thúc bằng cách nói thêm rằng, sự thực tập ấy theo thời gian là một phương cách giúp ta có thêm nhiều tuệ giác hơn và hơn nữa. Chánh niệm là một pháp môn đức Phật dạy để giúp ta trở thành người hoàn toàn có tuệ giác, tình thương, bao dung và hạnh phúc.
Theo lời Phật dạy thì một người giác ngộ có mười đức tánh đặc biệt. Chúng được gọi là các ba-la-mật (paramita), giúp ta vượt qua đến bờ bên kia, tức là cảnh giới giải thoát. Mười ba-la-mật ấy là: bố thí, giới luật, xuất ly, tuệ giác, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, cương quyết, từ bi và buông xả. Hãy nhìn lại kinh nghiệm của bạn về khóa tu vừa qua. Tôi thấy ý muốn tham dự khóa tu, ngay cả trước khi khóa tu bắt đầu, là giới luật ba-la-mật, vì đó là biểu hiện của một ý muốn làm điều tốt lành cho mình và người chung quanh. Bạn cần một cương quyết ba-la-mật để tiếp tục khoá tu. Và khi bạn phải xa lìa người thân, bạn bè cũng như những công việc thường ngày trong một thời gian, nó đòi hỏi xuất ly và tinh tấn ba-la-mật. Mỗi khi bạn thích nghi với một hoàn cảnh mới, một cảm thọ mới hoặc một tư tưởng mới, là bạn thực tập buông xả ba-la-mật. Mỗi giây phút của sự tỉnh thức có mặt là một giây phút của chân thật ba-la-mật. Ở với khóa tu là nhẫn nại ba-la-mật. Thực tập ban rải tâm từ là thể hiện từ bi và bố thí ba-la-mật. Và sự hiểu biết chính là tuệ giác ba-la-mật. Trong khoá tu bạn đã thực tất cả 10 ba-la-mật ấy. Chỉ cần với chánh niệm.
Có lần, tôi xem trên ti vi tường trình về một cuộc thi ba môn của các học sinh một trường dạy nấu ăn. Thay vì các môn đạp xe, chạy bộ và bơi lội thì cuộc thi này lại gồm các môn đạp xe, chạy bộ và nấu ăn! Mỗi thí sinh, sau khi nhận một chiếc ba lô có đựng một số vật liệu bí mật ở điểm khởi hành, phải đạp xe vượt qua chặng đường đua, sau đó chạy bộ qua một đoạn đường quy định, mang theo chiếc ba lô ấy. Cuối cuộc đua là một nhà bếp lớn với đầy đủ bếp lò, và mỗi người phải nấu thành món ăn từ những vật liệu trong ba lô của họ. Mọi thí sinh đều có những vật liệu giống y như nhau.
Những “vật liệu” để trở thành như đức Phật là một phần tiềm năng cơ bản của mỗi chúng ta, ai ai cũng có sẵn.
Những thí sinh của trường dạy nấu ăn biết rõ rằng họ đang nấu ăn, còn chúng ta thì vô tình không hay biết rằng trong khi đang ngồi, đi và giữ chánh niệm, mười ba-la-mật ấy vẫn đang tự chúng được “nấu chín” trong ta. Hãy xem sự phát triển của những ba-la-mật ấy như là món quà vô giá của chánh niệm.