(Xem: 1938)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2333)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

Chánh niệm và sức khỏe

02 Tháng Sáu 201312:00 SA(Xem: 11857)

Chánh niệm và sức khỏe



Trong vòng 30 năm nay, chữ “chánh niệm” (được dịch ra tiếng Anh là “mindfulness”) đã trở thành quen thuộc đối với người Âu Mỹ, nhờ vào công phu của nhiều vị tu hành đức độ, truyền bá những khái niệm của đạo Phật vào những miền đất xưa nay không có truyền thống Phật. Những danh từ Phật học đa số là tiếng Hán Việt nên thường khó hiểu đối với người Việt, dù có thể được nói đến hằng ngày, thí dụ như chữ “chánh niệm” hay chữ “vô thường”. Nay vì có nhu cầu cho người Âu Mỹ học Phật, những danh từ Phật học đa số đều đã được dịch ra tiếng Anh nên đã giúp cho nhiều Phật tử hiểu được ý nghĩa những danh từ này dễ dàng hơn. Muốn hiểu chữ chánh niệm, chúng ta có thể hiểu qua chữ “mindfulness” mà nghĩa đen chỉ giản dị là “để hết tâm trí vào” một chuyện gì đó, hay nói một cách văn hoa hơn là “sống trong hiện tại”, chú ý hết mình vào sự kiện, con người, vật chất chung quanh ta ngay phút giây hiện tại, thay vì lơ đãng nghĩ đến những chuyện khác trong quá khứ hoặc tương lai.

blank

Chánh niệm hay “sống trong hiện tại” có ích gì cho sức khỏe nhân loại? Nhiều người có thể nghĩ rằng chánh niệm là chuyện tâm linh, làm sao có thể giúp ích cho sức khỏe. Nhưng hiện nay, người ta đã ý thức được rằng sức khỏe thể lý gắn liền với sức khỏe tâm linh, một khi tâm trí an lạc thì thân thể cũng sẽ khỏe mạnh hơn.
Trong một buổi thuyết giảng đạo Phật, một thí dụ đã được đưa ra mà tôi muốn nhắc lại ở đây. Người Âu Mỹ vốn tính năng động hơn người Á Đông, lúc nào cũng loay hoay đi tìm cách giải quyết những vấn đề trong đời sống của họ, một đời sống tuy rất thoải mái no đủ về phương diện vật chất nhưng quá thiếu thốn về tinh thần khiến bệnh tâm thần tràn lan khắp nơi. Đột nhiên, họ nghe một vị thiền sư nhắc nhở: “Breathe! Youre alive!” (Hãy thở đi! Bạn đang sống!). Chỉ cần dồn “chánh niệm” vào hơi thở, người ta sẽ bớt đi những ý nghĩ tràn lan trong óc và trở nên an bình hơn. Những người Mỹ bắt đầu cảm thấy sự mầu nhiệm của “mindfulness” hay “chánh niệm”.
Nhưng nói thì dễ, làm thì khó. Chúng ta hầu hết đã có thói quen “nghĩ nhiều chuyện một lúc”, thậm chí còn lấy làm hãnh diện có thể “multitasking” tức làm nhiều chuyện một lúc, do đó khó có thể dồn hết tâm ý, chánh niệm vào một thứ. Vì thế chúng ta cần phải thực tập nhiều thì mới có thể tập được thói quen “chánh niệm” để có thể có nhận thức rõ hơn về thế giới xung quanh.
Chánh niệm (mindfulness) là gì?
Nói cho rõ hơn, chánh niệm là nhận thức rõ rệt những gì chúng ta đang nhận ra và cảm xúc ở tất cả mỗi lúc sống - mà không phê phán hay giải thích.
Dành quá nhiều thời giờ để lập kế hoạch, giải quyết vấn đề, mơ mộng, suy nghĩ tiêu cực hoặc mông lung có thể làm chúng ta thấy mệt mỏi, cạn kiệt năng lượng. Những chuyện ấy cũng có thể làm chúng ta căng thẳng, lo lắng và trầm cảm. Thực tập chánh niệm, mặt khác, có thể giúp chúng ta không để tâm vào những suy nghĩ trên để tiếp cận ngay với thế giới xung quanh.
Những lợi ích của chánh niệm
Thực hành các bài tập chánh niệm có thể có nhiều lợi ích:
Giảm căng thẳng, lo âu và trầm cảm
Ít suy nghĩ tiêu cực và mất tập trung
Tâm trạng trở nên thoải mái hơn

blank

Các bài tập chánh niệm
Có rất nhiều cách để thực tập chánh niệm:

 1.Chú ý.
Khi gặp một ai đó, hãy chăm chú lắng nghe lời nói của họ. Hãy suy nghĩ về ý nghĩa và sự độc đáo của những lời nói ấy. Hãy tập thói quen tìm hiểu rõ người khác, khoan phán đoán và chỉ trích họ.
2.Làm mới những thứ đã quen.
Tìm một số đồ vật quen thuộc trong nhà hoặc văn phòng của mình - chẳng hạn như bàn chải đánh răng, trái táo hoặc điện thoại di động. Nhìn vào các đồ vật này với con mắt mới. Tìm ra một chi tiết mới về mỗi đồ vật mà trước kia ta không nhìn thấy. Khi ý thức hơn về thế giới chung quanh, ta sẽ thấy yêu thích và quyến luyến những thứ này hơn.
3.Tập trung vào hơi thở.
Tìm một chỗ yên tĩnh, ngồi thẳng lưng và thoải mái. Buông xả hoàn toàn, thư giãn tối đa tất cả những bộ phận cơ thể. Có thể thư giãn lần lượt từ đầu xuống chân rồi thở ra một hơi nhanh để buông thả tất cả người. Cảm nhận hơi thở di chuyển vào ra. Chú ý hoàn toàn vào hơi thở của mình mà thôi, không để tâm đến bất cứ chuyện gì khác. Theo dõi sự phập phồng của lỗ mũi khi không khí vào ra. Theo dõi phần bụng phình xẹp cùng hơi thở. Dù cố gắng, nhiều lúc chúng ta sẽ thấy trí óc mình buông bỏ hơi thở để chú ý chuyện khác. Khi ý thức được tâm trí đang lang thang như vậy, chỉ nhẹ nhàng chuyển hướng để trở lại với hơi thở. Không tự phê phán, thí dụ như tự nhủ “Mình tệ quá, không chú tâm được.” Hãy nhớ rằng mình không đang cố gắng để trở thành bất cứ cái gì - chẳng hạn như thành một thiền giả tốt. Chúng ta chỉ đang thực tập để nhận thức rõ những gì đang xảy ra chung quanh, từng hơi thở một.
4.Đánh thức những giác quan.
Lấy một trái quýt. Tìm một chỗ yên tĩnh, ngồi thẳng lưng và thoải mái. Buông xả hoàn toàn, thư giãn tối đa tất cả những bộ phận cơ thể. Có thể thư giãn lần lượt từ đầu xuống chân rồi thở ra một hơi nhanh để buông thả tất cả người. Nhìn kỹ trái quýt, quan sát mầu da quýt tươi đẹp, cảm nhận cái bóng láng trơn tru của da trái quýt, tưởng tượng vị ngọt của quýt khi ta ăn nó.... Bóc vỏ trái quýt, cảm nhận hương thơm của nó khi tinh dầu trong vỏ quýt bay ra. Cắn một múi quýt, nhai chậm rãi và nhận thức tất cả những cảm giác khi ăn quýt, từ mùi thơm đến hương vị và cảm giác ăn ngon. Chú ý đến sự thúc đẩy của cơ thể khiến mình muốn ăn thật nhanh và nuốt hết múi quýt ngay, những cảm xúc phát sinh ra khi ăn. Chú ý tới các giác quan và phản ứng của cơ thể với trái quýt có thể làm lộ ra cái nhìn sâu sắc đối với mối quan hệ của mình và chuyện ăn uống và thực phẩm.
Khi nào nên thực tập chánh niệm?
Khi nào tập chánh niệm thì cũng còn tùy vào loại thực tập nào ta muốn làm

Ví dụ, nếu muốn tập chú tâm hoàn toàn vào lời nói của người khác, ta có thể thực tập bất cứ lúc nào trong ngày. Mới thức dậy, mình có thể nói chuyện và chú tâm ngay đến lời nói của người bạn đời. Cũng vậy, ta có thể thực tập vào lúc bắt đầu cuộc họp với một đồng nghiệp, hoặc trong bữa ăn tối với bạn bè hoặc gia đình. Tuy nhiên, tránh thực hành bài tập kiểu này trong khi lái xe. Có thể đặt mục tiêu là thực hành trong vòng 15 đến 20 phút, 4-8 lần mỗi ngày.
Đối với các bài tập chánh niệm khác, chẳng hạn như tập trung vào hơi thở, ta sẽ cần phải dành thời gian để có thể ở một nơi yên tĩnh mà không bị phiền nhiễu hoặc gián đoạn. Có thể chọn thực tập vào buổi sáng sớm, trước khi bạn bắt đầu những hành động quen thuộc hàng ngày.
Đặt mục tiêu là thực hành chánh niệm mỗi ngày trong khoảng sáu tháng. Theo thời gian, ta có thể thấy rằng chánh niệm trở nên dễ dàng và chánh niệm là một cam kết để nuôi dưỡng và kết nối với chính mình.


Nguồn_(VienDongDaily.Com - 24/05/2013)
B.S Nguyễn Thị Nhuận

***Vì không có số điện thoại hay địa chỉ để liên lạc xin phép, và muốn phổ biến PHẬT PHÁP, suy ngẫm đến với mọi người.
Vô Môn Thiền Tự xin phép được đăng lại một số bài viết hoặc Pháp âm của Quý Chư Tăng - Phật Tử - Thân hữu.
Trân trọng


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 62244)
Hấp hối có nghĩa là gần chết. Có nhiều từ đồng nghĩa cùng biểu đạt cho trạng thái này như đang lâm chung, thời gian cận tử, lúc sắp chết… Độ ở đây mang ý nghĩa chuyển hóa, giúp người vượt qua, giáo hóa cho người.
(Xem: 78668)
Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), sư Phước Nhân, một hành giả của thiền viện Phước Sơn, nói rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
(Xem: 81259)
Khi tập ngồi thiền, điều khó khăn trước tiên là phải làm ngưng cái đầu ồn ào của mình. Nhiều người, dù cố gắng, cũng không thể nào làm yên được những tạp niệm trong đầu mình.
(Xem: 76013)
Một Tăng đoàn Phật giáo hoạt động đúng phải gồm bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nữ cư sĩ và nam cư sĩ. Tất cả đều cần thiết như nhau để duy trì và hỗ trợ truyền thống và thực hành giáo pháp của Đức Phật.
(Xem: 18539)
Sân hận là loại cảm xúc thường gây khó cho nhiều người. Thí dụ khi bạn đang ngồi thiền, bỗng nhiên tâm sân khởi lên, và bạn nghĩ “Ồ không, tâm sân!”, -đó là thái độ phản kháng. Nhưng sẽ thế nào nếu bạn nghĩ, “Ồ tuyệt vời, tâm sân!” Bạn có thấy sự khác biệt không? Chúng ta thường có xu hướng dễ chấp nhận sự dễ chịu, nhưng ghét bỏ sự khó chịu.
(Xem: 19027)
Theravada (đọc như là tê-rê-va-đa), Học thuyết cuả các Trưởng lão, là một trường phái Phật giáo tiếp nhận giáo lý kinh điển từ Tipitaka, hay là kho tàng Thánh Điển Pali, mà theo như các học giả thường đồng ý với nhau rằng còn lưu lại được những ghi chép các giaó lý ban đầu cuả Đức Phật còn tồn tại với thời gian.
(Xem: 56655)
Trong suốt 45 năm giáo hóa, từ Thành đạo cho đến Niết Bàn, Phật quy tụ xung quanh hào quang của Ngài một số đệ tử cả xuất gia lẫn tại gia. Trong số này, những bậc xuất sắc ưu tú, chứng được thánh quả A La Hán gồm có 1250 vị. Đặc biệt có 10 vị mệnh danh là Thập Đại Đệ tử, trong 10 vị này mỗi vị đều có sở trường riêng, sở chứng riêng và đạo hạnh riêng.
(Xem: 17530)
Cái tinh thần chung của Phật là gì? Là tinh thần dắt dẫn, khuyến hóa chúng sanh biến đổi điều dữ ra điều lành, mê ra ngộ, khổ ra vui trong cảnh giải thoát Niết-bàn. Vậy bất cứ là kinh nào trong Tam tạng, dù mỗi kinh với mỗi sự trình bày khác nhau, nhưng nếu nhận có tinh thần giải thoát, có mục đích Niết-bàn trong đó tức chúng ta phải đem hết tinh thần khoáng đạt mà cố công tham cứu và học hỏi,
(Xem: 19093)
Được biết, xuất gia gieo duyên là một truyền thống lâu đời của các nước Phật giáo Nam tông như Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar và Sri Lanka - nơi Phật tử tại gia có thể thực hiện ước nguyện xuất gia, sống đời tu sĩ trong thời gian ngắn hạn 3 ngày, 7 ngày, 1 tháng, 3 tháng, 1 năm hoặc 3 năm. Theo đó, các Phật tử xuất gia gieo duyên tại thiền viện sẽ có thời khóa tu học như các chư Tăng tại thiền viện gồm học giáo lý, học kinh luật, ngồi thiền, tụng kinh, kinh hành, trồng cây, làm công quả...
(Xem: 18394)
Thuyết Vô Ngã chỉ tìm thấy trong Phật Giáo. Như vậy, thuyết Vô Ngã khiến cho Phật Giáo khác hẵn các tôn giáo khác. Bởi vì hầu hết các tôn giáo khác đều có sự tin tưởng ngược hẵn với thuyết Vô Ngã (Anatta). Thuyết Vô Ngã là thuyết nòng cốt hay thuyết cốt yếu của Phật giáo
(Xem: 113495)
Cái hại của sự ngu si đối với chính mình, phá hoại chính công việc của mình là điều mà kinh Phật thường nói đến. Người ngu làm những việc mà họ không nhận thức được lợi hại, có khi như một kẻ mất trí, không biết mình đang làm gì. Trong Kinh Tiểu bộ, một loạt bài kinh phê phán ngu si tự phá hại việc làm của mình được đặt liền kề nhau.
(Xem: 117195)
Nếu ai làm cho mình bực thì mình qui trách cho người đó, kể như xong chuyện. Nhưng, Đức Phật thì Ngài nói đến những trạng thái tham sân. Trạng thái sân đến từ nhiều căn đế, mà chúng ta rất khó có thể tưởng tượng, nếu chúng ta không phải là người hiểu Phật Pháp
(Xem: 108865)
Phật giáo Nam Tông người Kinh phát triển chủ yếu tại hai thành phố lớn làSaigon và Thừa Thiên – Huế. Khoảng thập niên 30 của thế kỷ 20, Phật giáo Nam Tông người Kinh có mặt tại Sài Gòn – Gia Định. Đó là các nhà sư người Việt sang Campuchia tu học và trở thành những đoàn truyền giáo Phật giáo Nguyên Thủy đầu tiên tại Việt Nam bao gồm: hòa thượng Thiện Luật, hòa thượng Hộ Tông, hòa thượng Huệ Nghiêm.
(Xem: 18432)
Lý tưởng A-la-hán thường được xem là lý tưởng dẫn đạo cho Phật giáo Nguyên Thủy và lý tưởng Bồ tát là lý tưởng dẫn đạo của Phật giáo Đại Thừa. Nhận định này không hoàn toàn đúng, vì truyền thống Nguyên Thủy đã thể nhập lý tưởng Bồ tát trong giáo lý cơ bản và như vậy đã công nhận giá trị của quả vị A-la-hán và quả vị Phật đều là hạnh nguyện tu tập của người xuất gia. Vì thế, nói một cách chính xác hơn thì lý tưởng A-la-hán và lý tưởng Bồ tát là những lý tưởng dẫn đạo cho cả Phật giáo Tiền Nguyên Thủy lẫn Phật giáo Đại thừa
(Xem: 22302)
Tín ngưỡng dân gian cho rằng phóng sinh là một hành động thể hiện lòng từ bi và giải trừ được nghiệp chướng. Tục thả chim phóng sinh (sanh) vì thế rộn ràng nhất vẫn là vào các ngày rằm và ngày lễ vía, đặc biệt những ngày đầu năm mới.
(Xem: 18680)
Đạo Phật Việt Nam giống và khác nhau với đạo Phật Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng, Thái Lan, Miến Điện chỗ nào? Đạo Phật còn khác nhau về các ‘thừa’: Tiểu Thừa (Theravada- Nguyên Thuỷ), Đại thừa, Kim Cương thừa, các tông phái liên hệ đến cách hành trì: Thiền & Tịnh Độ. Ngay cả trong Thiền còn chia ra thành Lâm Tế & Tào Động & Đốn Ngộ & Tiệm Tu. Những người ngoài cửa hay mới vào cửa đã thấy nhức đầu và tẩu hỏa nhập ma
(Xem: 19085)
Tốt và xấu có phạm vi ý nghĩa khá rộng, và sự đánh giá tốt xấu về một người, một hành vi, còn tùy thuộc vào quan niệm xã hội, những quy định, quy ước và cả cách nhìn của mỗi cá nhân. Tốt và xấu là những tiêu chí để đánh giá đạo đức. Thông thường, một người tốt được nghĩ là một người có đạo đức, và ngược lại. Cũng như vậy, những hành vi được xem là tốt khi hành vi ấy tuân theo những nguyên tắc đạo đức nào đó; và ngược lại, những hành vi được coi là xấu khi chúng chệch ra khỏi những nguyên tắc đạo đức.
(Xem: 88397)
Phước đức dù cực khổ gieo tạo nhiều đời, nhưng do cái miệng tạo nghiệp, phê bình, chỉ trích, nói lời ác... thì trong giây phút cũng có thể tiêu tan.Cái miệng, lưỡi của người thế gian điều hại sẽ nhiều hơn điều lợi rồi. Tạo hóa sinh ra con người có hai lổ tai, nhưng chỉ có một cái miệng, cho nên phải nghe nhiều hơn nói, mới đúng với tự nhiên, được thân người là khó, có đầy đủ lục căn và miệng lưỡi trọn vẹn là phước đức quá rồi, hãy nhân vốn phước báu nầy mà gieo trồng thêm phước đức ra nữa, thì mới là người khôn, bởi vậy phải lo: Tu cái miệng là điều cần thiết nhất và xem như tu hơn nửa đời người rồi.
(Xem: 34253)
Trước hết phải nói rằng trong giới luật thuộc truyền thống Nguyên Thủy, không có giới cấm ăn thịt cá, mặc dầu có giới cấm sát sanh. Phật giáo Nguyên Thủy quan niệm rằng ăn cách nào cũng được, tùy duyên mà ăn cho có đủ sức khỏe để hành trì giáo pháp, ăn chay mà thân thể yếu đuối xanh xao, tinh thần bạc nhược thì rất tai hại, đường tu đạo đã không được tiến hóa mà còn trở ngại cho sự tu hành.
(Xem: 115485)
Việc đầu tiên của đức Phật sau khi giác ngộ là thành lập Tăng đoàn gồm những đệ tử xuất gia theo Ngài, những hiền nhân nay đây mai đó, những người từ bỏ tất cả để học Phật pháp và hoằng dương giáo lý giải thoát. Họ sống bằng cách đi khất thực từ nhà này đến nhà khác, và sở hữu của họ không có gì ngoài ba chiếc áo và một cái bình bát. Danh từ khất sĩ có từ đó. Khất Sĩ có nghĩa là khất thực và khất pháp, tức là xin vật thực của người đời để nuôi thân và xin Pháp của Phật để tu hành nuôi tâm.