(Xem: 2001)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2442)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

03-Quả báu niệm An Đức Phật.

30 Tháng Năm 201312:00 SA(Xem: 10531)


III-QUẢ BÁU CỦA ĐỀ MỤC NIỆM ÂN ĐỨC PHẬT.


Niệm Ân Đức Phật có oai lực tránh được tai họa

Dārusākatikaputtavatthu: tích đứa bé, con trai người đốn củi, được tóm lược như sau (Dhammapadatthakathā, chuyện Dàrusākatikaputtavatthu):

- Trong thành Ràjagaha có 2 đứa bé trai:

Một đứa có chánh kiến, con của gia đình người làm nghề đốn củi, có đức tin nơi Tam bảo.

Một đứa có tà kiến, con của gia đình ngoại đạo.

Hai đứa thường chơi trò bắn bi, đến phiên đứa bé chánh kiến, trước khi bắn viên bi, nó niệm tưởng Ân Đức Phật rằng: "Namo Buddhassa = con thành kính đảnh lễ Đức Phật" rồi mới bắn; lần nào nó cũng bắn trúng đích, được thắng cuộc.

Đến phiên đứa bé tà kiến, trước khi bắn viên bi, nó cũng niệm tưởng vị Arahán của nó rằng: "Namo Arahantānam ï= con thành kính đảnh lễ chư Arahān" [*] rồi mới bắn; lần nào nó cũng bắn không trúng đích, bị thua luôn.

[*] Ngoại đạo không có bậc Thánh Arahān thật, gọi là vị Arahān chỉ là cách tôn xưng, cho nên không có oai lực nào cả.

Một hôm, đứa bé chánh kiến theo cha ngồi trên chiếc xe bò đi vào rừng đốn củi. Buổi chiều chở củi về nhà ở trong thành Ràjagaha. Khi đến gần nghĩa địa bên ngoài cổng thành, người cha đứa bé cho xe ngừng lại, thả bò cho ăn cỏ, uống nước. Con bò đi theo đường vào thành, người cha đi tìm bò theo dấu chân vào thành. Khi gặp được con bò, ông định dắt bò trở ra thì cửa thành đã đóng rồi, người cha đành ở lại trong thành chờ đến sáng mai.

Đứa con trai nhỏ nằm trên xe củi chờ người cha, đói khát ngất xtu nằm ngủ thiếp đi trong xe củi. Ban đêm, có hai dạ xoa đi kiếm ăn, một dạ xoa có chánh kiến và một dạ xoa có tà kiến, cả hai dạ xoa nhìn thấy đứa bé nằm ngủ mê trên xe, dạ xoa tà kiến bảo rằng: "Đứa bé kia là vật thực của chúng ta, chúng ta sẽ ăn thịt nó". Mặc dầu dạ xoa chánh kiến can ngăn, dạ xoa tà kiến vẫn tiến đến đưa tay nắm đôi chân đứa bé, đứa bé này vốn là con của gia đình có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, cha mẹ dạy cậu bé thường ngày niệm Ân Đức Phật, nên khi dạ xoa vừa nắm chân đứa bé, đứa bé thức tính, cậu liền niệm Ân Đức Phật rằng: "Namo Buddhassa". Dạ xoa tà kiến nghe đến Ân Đức Phật, kinh hoàng hoảng sợ rút tay lại. Liền khi ấy, dạ xoa chánh kiến bảo rằng: "Chúng ta đã phạm phải một tội lỗi lớn rồi! Chúng ta phải chịu hành phạt thôi!".

- Đứa bé này đang bị đói khát, vậy nhà ngươi hãy vào trong cung điện Đức Vua đem mâm đồ ăn của Đức Vua cho đứa bé này ăn, để lập công chuộc tội lỗi của nhà ngươi. - Dạ xoa chánh kiến bảo.

Dạ xoa tà kiến nghe nói phải, nên biến vào thành lấy mâm đồ ăn ra. Một dạ xoa hóa làm cha và một dạ xoa hóa làm mẹ của đứa bé, cho đứa bé ăn giống như cha mẹ của đứa bé hằng ngày. Đứa bé ăn xong, dỗ đứa bé nằm ngủ ngon; trước khi hai dạ xoa từ giã đứa bé; khắc chữ cho biết những sự việc xảy ra trên chiếc mâm vàng, với cố ý chỉ để một mình Đức Vua thấy biết mà thôi, còn những người khác không thấy, không biết được. Hai dạ xoa trở về chỗ ở của mình.

Sáng hôm sau, trong cung điện của Đức Vua phát giác chiếc mâm vàng cả đồ ăn bị mất trộm. Lnnh thị vệ đi lục soát khắp nơi không tìm gặp, rồi ra khỏi thành nhìn thấy chiếc mâm vàng và bộ đồ chén đĩa của Đức Vua nằm trên xe củi, thấy đứa bé trong xe, bèn hỏi: "Những đồ vật này từ đâu có?". Đứa bé trả lời: "Cha mẹ của con đem đến cho con ăn". Quân thị vệ bắt đứa bé với tang vật rõ ràng, dẫn đến trình Đức Vua.

Đức Vua Bimbisāra cầm chiếc mâm vàng tang vật, nhìn thấy những dòng chữ của dạ xoa ghi lại. Đức Vua hỏi cậu bé:

- Này con, sự việc xảy ra như thế nào?

Đứa bé tâu:

- Tâu Đức Vua, con không ăn trộm, đêm qua cha mẹ con mang đến cho con ăn rồi dỗ con ngủ. Con chỉ biết như vậy thôi.

Đức Vua truyền lệnh bắt cha mẹ đứa bé dẫn đến trình Đức Vua, rồi dẫn đứa bé và cha mẹ của nó cùng nhau đến hầu Đức Phật tại chùa Veluvana. Đảnh lễ Đức Thế Tôn xong bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, có phải chỉ có niệm Ân Đức Phật mới hộ trì cho người hành pháp? Còn niệm Ân Đức Pháp, Ân Đức Tăng... có hộ trì cho người hành pháp được hay không? Bạch Ngài.

Đức Phật dạy:

- Này Đại Vương! Không chỉ niệm Ân Đức Phật mới hộ trì cho người hành pháp, mà còn niệm Ân Đức Pháp, Ân Đức Tăng, niệm thân ô trược, niệm rải tâm từ, niệm rải tâm bi... cũng được hộ trì cho người hành pháp vậy.

Người Phật tử, ngày đêm tinh tấn niệm Ân Đức Phật: "Itipi so Bhagavā Araham...", hoặc niệm ân Đức Pháp: "Svākhāto Bhagavatā dhammo...", hoặc niệm Ân Đức Tăng: "Suppatipanno Bhagavato sāvakasamgho...", sẽ là người luôn luôn được tâm trí sáng suốt, không mê muội, tránh mọi tai họa xảy đến cho mình.

Nhân cơ hội ấy, Đức Phật thuyết pháp tế độ, cậu bé và cha mẹ của cậu bé đều chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Về sau, cả người cha, người mẹ và đứa con đều xuất gia tiến hành thiền tuệ chứng đắc đến Arahán Thánh Đạo, Arahān Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahān.

Oai Lực Niệm Ân Đức Tam Bảo

Tích Đại Đức Mahākappina (Bộ Dhammapadatthakathā, chuyện Mahākappinattheravatthu), khi Ngài còn là một vị Vua trị vì kinh thành Kukkutavatì. Một hôm, Đức Vua cùng 1.000 vị quan cận thần cưỡi ngựa du lãm ngoài thành, gặp nhóm người lái buôn từ kinh thành Sāvatthi đi vào thành, Đức Vua bèn hỏi:

- Này các ngươi, ở kinh thành Sàvatthi có tin lành gì không?

- Tâu Đức Vua: Buddho uppanno! = Đức Phật đã xuất hiện trên thế gian!

Đức Vua vừa nghe đến danh hiệu "Buddho", thì liền phát sanh hỉ lạc chưa từng có. Đức Vua hỏi lại đến lần thứ ba, những người lái buôn đều tâu như lần trước, lần nào cũng phát sanh hỉ lạc như vậy. Đức vua hỏi tiếp:

- Còn tin lành nào khác nữa?

- Tâu Đức Vua: Dhammo uppanno! = Đức Pháp đã xuất hiện!

Đức Vua vừa nghe đến "Dhammo", như lần trước, liền phát sanh hỉ lạc chưa từng có, nên hỏi đến lần thứ ba, nghe tâu đ?n lần thứ ba, lần nào cũng phát sanh hỉ lạc như vậy. Đức vua hỏi tiếp:

- Còn tin lành nào khác nữa?

- Tâu Đức Vua: Samgho uppanno! = Đức Tăng đã xuất hiện!

Đức Vua vừa nghe đến "Samgho", như hai lần trước, liền phát sanh hỉ lạc chưa từng có, nên hỏi đến lần thứ ba, nghe tâu đến lần thứ ba, lần nào cũng phát sanh hỉ lạc như vậy.

Đức Vua lấy tấm biển vàng ghi 300 ngàn đồng tiền vàng làm tiền thưởng, rồi trao cho nhóm người lái buôn, truyền lệnh đem đến trình Hoàng hậu Anojà để lãnh thưởng. Trong biển vàng, Đức Vua ghi rõ, xin trao ngai vàng lại cho Hoàng hậu lên ngôi trị vì đất nước.

Đức Vua không hồi cung, cùng 1.000 vị quan cận thần từ đó đi đến hầu Đức Phật. Trên đường đi gặp con sông Aparacchà sâu và rộng lớn, nơi đây không thuyền bè, với tâm mong muốn sớm hầu Đức Phật, nên Đức Vua niệm Ân Đức Phật: "Itipi so Bhagavā Araham, Sammāsambuddho, Vijjācaranasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaropurisadammasārathi, Satthādeva-maussānam, Buddho, Bhagavā". Do oai lực của Ân Đức Phật, Đức Vua cùng 1.000 vị quan cưỡi ngựa băng qua sông ấy một cách dễ dàng.

Tiếp đến gặp con sông Nīlavāhinī, cũng sâu và rộng lớn không thuyền bè, như lần trước, Đức Vua niệm Ân Đức Pháp: "Svākkhāto Bhagavatā Dhammo, Sanditthiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattam veditabbo vinnūhi". Do oai lực của Ân Đức Pháp, Đức Vua cùng các quan cưỡi ngựa băng ngang qua sông ấy một cách dễ dàng như trước.

Tiếp đến lại gặp con sông Candabhāgā, cũng sâu và rộng lớn không thuyền bè, như hai lần trước, Đức Vua niệm Ân Đức Tăng: "Suppatipanno Bhagavato Sàvakasamgho, Ujuppatipanno Bhagavato Sāvakasamgho, Nāyappatipanno Bhagavato Sāvakasamgho, Sāmīcippatipanno Bhagavato Sāvakasamgho, yadidam cattārī purisayugāni attha purisapuggalà. Esa Bhagavato Sāvakasamgho Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhineyyo, Anjalikaranīyo, Anuttaram punnakkhettam lokassa". Do oai lực của Ân Đức Tăng, Đức Vua cùng các quan cưỡi ngựa băng ngang con sông ấy một cách dễ dàng như hai lần trước.

Như đã biết trước, Đức Phật ngồi dưới gốc cây phóng hào quang 6 màu sáng ngời làm hiệu cho Đức Vua cùng 1.000 vị quan biết. Tất cả đều đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, rồi ngồi nghe Ngài thuyết pháp. Nghe xong, Đức Vua cùng 1.000 vị quan đều chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, rồi đảnh lễ Đức Phật xin xuất gia trở thành Tỳ khưu. Đức Phật quán xét thấy rõ tất cả đều có phước thiện phát sanh 8 món vật dụng của Sa môn, nên Ngài đưa bàn tay phải chỉ bằng ngón trỏ mà truyền dạy:

"Etha bhikkhavo, caratha brahmacariyam sammā dukkhassa antakiriyāya".
"Các con hãy lại đây! Các con trở thành Tỳ khưu theo nguyện vọng! Chánh pháp mà Như Lai thuyết giảng hoàn hảo đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối, các con hãy thực hành phạm hạnh đúng đắn dẫn đến sự tận cùng của khổ đế".

Khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt lời, ngay tức thì, Đức Vua cùng 1.000 vị quan trở thành Tỳ khưu có đầy đủ 8 món vật dụng của Sa môn được phát sanh do thần thông. Chư Tỳ khưu ấy có tăng tướng trang nghiêm, lục căn thanh tịnh như vị Tỳ khưu 60 hạ.

Về phần những người lái buôn khi nhận được biển vàng do Đức Vua ban cho, đi thẳng vào cung điện xin yết kiến Hoàng hậu Anojà, trình chiếu chỉ xin lãnh thưởng 300 ngàn đồng vàng. Hoàng hậu thấy vậy bèn hỏi:

- Các ngươi làm việc gì mà Hoàng thượng ban thưởng số tiền lớn như vậy?

- Tâu Hoàng hậu, chúng thần không làm công việc gì, chỉ có báo một tin lành mà thôi.

- Các ngươi có thể nói cho ta nghe được không?

- Tâu Hoàng hậu! Có thể được: Buddho uppanno! = Đức Phật đã xuất hiện trên thế gian!

Hoàng hậu vừa nghe đến danh hiệu "Buddho" thì liền phát sanh hỉ lạc chưa từng có, bà hỏi lại đến lần thứ ba, các người lái buôn tâu lại như lần trước, lần nào cũng phát sanh hỉ lạc. Bà truyền bảo:

- Còn tin lành nào khác nữa?

- Tâu Hoàng hậu: Dhammo uppanno! = Đức Pháp đã xuất hiện!

Hoàng hậu vừa nghe đến "Dhammo", như lần trước liền phát sanh hỉ lạc chưa từng có, nên hỏi lại lần thứ ba, nghe tâu lần nào cũng phát sanh hỉ lạc như vậy. Bà truyền tiếp:

- Còn tin lành nào khác nữa?

- Tâu Hoàng hậu: Samgho uppanno! = Đức Tăng đã xuất hiện!

Hoàng hậu vừa nghe đến "Samgho", như hai lần trước, liền phát sanh hỉ lạc chưa từng có, nên hỏi lại lần thứ ba, nghe tâu lần nào cũng phát sanh hỉ lạc như vậy.

Hoàng hậu truyền dạy:

- Ba tin lành lớn lao đến dường ấy, mà Hoàng thượng ban thưởng cho các người có 300 ngàn. Còn ta, mỗi tin lành, ta ban thưởng cho các ngươi 300 ngàn, các ngươi được lãnh thưởng 900 ngàn tiền vàng".

Như vậy, các lái buôn chỉ báo tin lành Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng đã xuất hiện mà được lãnh thưởng 1.200 ngàn đồng tiền vàng.

- Hoàng Thượng cùng 1.000 quan cận thần đi đâu? - Hoàng hậu hỏi tiếp.

- Tâu Hoàng hậu, Đức Vua cùng 1.000 quan cận thần đi đến hầu Đức Phật và sẽ xuất gia. - Các lái buôn trả lời.

Nghe tâu như vậy, Hoàng hậu truyền gọi phu nhân của 1.000 vị quan đến báo tin:

- Hoàng thượng của chúng ta hay tin lành Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng đã xuất hiện trên thế gian, Người đã từ bỏ ngai vàng để lại cho ta, như nhổ bỏ bãi nước miếng, rồi ngự đến hầu Đức Phật, sẽ xuất gia để giải thoát khổ.

Chẳng lẽ ta không có khổ hay sao? Đức Vua từ bỏ ngai vàng như nhổ bỏ bãi nước miếng, chẳng lẽ ta lại quỳ gối liếm bãi nước miếng ấy hay sao? Ta cũng sẽ đi đến hầu Đức Phật, sẽ xuất gia để giải thoát khổ? Còn các ngươi nghĩ thế nào?

Nhóm 1.000 phu nhân đồng tâm nhất trí xin đi theo Hoàng hậu đến hầu Đức Phật.

Hoàng hậu truyền sửa soạn ngựa quý, cùng 1.000 phu nhân mỗi người một ngựa theo sau đến hầu Đức Phật, và đi theo con đường mà Đức Vua cùng các quan đã ngự đi.

Hoàng hậu cùng các phu nhân đi đến con sông Aparacchā, Hoàng hậu niệm Ân Đức Phật: "Itipi so Bhagavà Araham...". Do oai lực Ân Đức Phật, mọi người cùng băng qua con sông ấy một cách dễ dàng.

Tiếp đến con sông Nìlavàhinì, Hoàng hậu niệm Ân Đức Pháp: Svākkhāto Bhagavatā Dhammo...". Do oai lực Ân Đức Pháp, mọi người cùng băng qua con sông ấy một cách dễ dàng.

Tiếp đến con sông Candabhāgā, Hoàng hậu niệm Ân Đức Tăng: "Suppatipanno Bhagavato Sāvakasamgho...". Do oai lực Ân Đức Tăng, mọi người cũng đều băng qua con sông ấy một cách dễ dàng. Thế rồi, Hoàng hậu cùng các vị phu nhân ngự đến hầu Đức Phật.

Đức Thế Tôn biết Hoàng hậu Anojà cùng 1.000 vị phu nhân sắp đến, Ngài phóng hào quang 6 màu sáng ngời làm hiệu, Hoàng hậu cùng các vị phu nhân biết, đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong bạch:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, Đức Vua Mahākappina cùng 1.000 vị quan có đến đây không? Bạch Ngài!

Đức Phật hóa phép thần thông che khuất không để Hoàng hậu cùng 1.000 phu nhân nhìn thấy Tỳ khưu Mahàkappina cùng 1.000 vị Tỳ khưu khác. Đức Thế Tôn dạy rằng:

- Các con hãy ngồi nghe Như Lai thuyết pháp, rồi tại nơi đây các con sẽ nhìn thấy Mahàkappina cùng các quan.

Hoàng hậu cùng 1.000 vị phu nhân an tâm ngồi nghe Đức Phật thuyết pháp. Khi nghe pháp xong, Hoàng hậu cùng 1.000 vị phu nhân đều chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Đồng thời ngay khi ấy, Tỳ khưu Mahàkappina cùng 1.000 vị Tỳ khưu khác đều chứng đắc từ Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả, đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán cùng với 4 Tuệ phân tích.

Khi ấy, Đức Phật thâu phép thần thông, Hoàng hậu cùng các phu nhân nhìn thấy Đức Vua Mahàkappina cùng 1.000 vị quan, bây giờ ở trong tướng mạo một Tỳ khưu trang nghiêm như vị Đại Đức 60 hạ. Hoàng hậu cùng các vị phu nhân phát sanh đức tin trong sạch, kính xin Đức Thế Tôn xuất gia trở thành Tỳ khưu ni.

Đức Thế Tôn chỉ dạy Hoàng hậu cùng 1.000 phu nhân đến tìm gặp Đại Đức Tỳ khưu ni Uppalavannà chỉ dẫn cách xuất gia trở thành Tỳ khưu ni.

Hoàng hậu cùng 1.000 vị phu nhân sau khi đã trở thành Tỳ khưu ni thời gian không bao lâu, tất cả đều chứng đắc đến Arahán Thánh Đạo - Arahān Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahān trong giáo pháp của Đức Phật.

Oai lực niệm Ân Đức Phật, Ân Đức Pháp, Ân Đức Tăng thật phi thường!

Qua câu chuyện trên, chúng ta hiểu rằng: danh hiệu Buddho, Dhammo, Samgho không phải dễ được nghe trong kiếp tử sanh luân hồi ba giới bốn loài, bởi vì, Đức Phật xuất hiện trên thế gian này rất hiếm có; có khi trải qua vô số kiếp trái đất thành - trụ - hoại - không mà không một Đức Phật Toàn Giác nào xuất hiện cả. Cho nên, Đức Phật xuất hiện trên thế gian rất hiếm có, khi Đức Phật xuất hiện, Ngài đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc cho chúng sinh; nhất là những chúng sinh nào có đã gieo duyên lành từ Đức Phật ở quá khứ, đã tạo ba la mật trọn đủ; nay kiếp hiện tại này, những hạng chúng sinh ấy gặp được Đức Phật hoặc giáo pháp của Đức Phật chắc chắn sẽ được lợi ích cao thượng là chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn.

 

Câu Chuyện Đại Đức Subhūti

Tiền kiếp Đại Đức Subhūti [*] tên là Nanda, thuộc dòng tộc Bà la môn. Ngài sanh vào thời kỳ Đức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, cách kiếp trái đất của chúng ta 100.000 đại kiếp.

[*] Bộ chú giải Anguttaranikāya, phần Etadaggavagga, chuyện Đại Đức Subhìtittheravatthu.

Cậu Nanda khi trưởng thành đi xuất gia trở thành Đạo sĩ có nhóm đệ tử gồm có 84.000 vị trú ở dãy núi Himavanta.

Một hôm, Đức Phật Padumuttara ngự đến dãy núi Himavanta, vị Đạo sĩ cùng nhóm đệ tử đến hầu hộ độ cúng dường hoa, trái cây đến Đức Phật.

Đức Phật Padumuttara dạy Đạo sĩ Nanda:

"Này Nanda, con nên tiến hành tuỳ niệm Ân Đức Phật (Buddhānussati) là pháp hành cao quý. Do phước thiện mà con đã tiến hành tuỳ niệm Ân Đức Phật, con sẽ hưởng sự an lạc ở cõi trời dục giới suốt 30.000 đại kiếp trái đất, con sẽ là Đức Vua trời ở cõi Tam thập tam thiên suốt 20 kiếp. Tái sanh ở cõi người con sẽ là Đức Chuyển luân thánh vương 1.000 kiếp, còn làm vua ở xứ lớn không sao kể xiết; trong các kiếp lớn, kiếp nhỏ trong vòng tử sanh luân hồi, con có đầy đủ các thứ của cải quý báu. Tất cả của cải quý báu ấy không bao giờ bị ai chiếm đoạt. Suốt 100.000 đại kiếp, trong vòng tử sanh luân hồi, con sẽ không bị sa vào trong 4 đường ác. Đến kiếp trái đất, có Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, khi ấy con tái sanh trong một gia đình phú hộ, đặt tên là "Subhūti". Khi trưởng thành con từ bỏ của cải gồm có 80 triệu đi xuất gia trở thành Tỳ khưu, sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Arahán có đức hạnh thọ thí cao quý xuất sắc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotama".

Đó là lời thọ ký của Đức Phật Padumuttara.

Đạo sĩ Nanda thực hành niệm Ân Đức Phật theo lời dạy của Đức Phật Padumuttara, mọi kết quả phát sanh đúng như lời thọ ký của Đức Phật. Đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân của đạo sĩ Nanda tái sanh gia đình phú hộ Sumana trong kinh thành Sàvatthi, đặt tên là Subhùti. Đến khi trưởng thành, từ bỏ gia đình, của cải đi xuất gia trở thành Tỳ khưu, tiến hành thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả cho đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán cùng với 4 Tuệ phân tích.

Đức Phật tán dương Đại Đức Subhūti có đức hạnh thọ thí cao quý xuất sắc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của của Đức Phật, đúng theo lời thọ ký của Đức Phật Padumuttara ở quá khứ.

Tích Singālakamātātherīvatthu

(Chú giải Anguttaranikāya, phần Etadaggavagga, chuyện Singālakamātātherīvatthu.)

Tiền kiếp mẹ của cậu Singālaka là cô gái của một vị quan, sanh vào thời kỳ của Đức Phật Padumuttara. Khi cô trưởng thành được phép từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành Tỳ khưu ni trong giáo pháp của Ngài. Tỳ khưu ni này là một người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo. Do nhờ thiện pháp ấy, trong vòng tử sanh luân hồi suốt 100.000 đại kiếp không bị sa vào 4 đường ác (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh).

Thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, cô tái sanh làm con gái của phú hộ ở kinh thành Rājagaha. Khi cô trưởng thành kết hôn cùng với người con trai của phú hộ, sanh được một người con trai đặt tên là Singālaka. Do đó, bà có tên gọi là Singālakamātā = mẹ của cậu Singālaka.

Về sau, bà đi xuất gia trở thành Tỳ khưu ni, với đức tin trong sạch đặc biệt trong giáo pháp của Đức Phật Gotama; sau khi trở thành Tỳ khưu ni, bà tiến hành đề mục niệm Ân Đức Phật (Buddhānussati) rồi dùng định tâm của đề mục niệm Ân Đức Phật làm nền tảng, tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả cho đến Arahān Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahān.

Một hôm, Đức Phật tán dương Tỳ khưu ni Singālakamātā có đức tin trong sạch xuất sắc nhất trong hàng nữ Thanh Văn đệ tử của Đức Phật.

Và còn có nhiều trường hợp tương tự khác.

Đề mục niệm Ân Đức Phật là một đề mục dễ làm cho phát sanh đức tin nơi Tam bảo, mà đức tin là nền tảng mọi thiện pháp từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến siêu tam giới thiện pháp.

Như vậy, đề mục niệm Ân Đức Phật không chỉ là đề mục thiền định, có khả năng chứng đạt đến cận định, mà còn là pháp làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ, dẫn đến sự nhàm chán trong ngũ uẩn, diệt tận tham ái, phiền não, chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Đạo -Thánh Quả và Niết Bàn được. Như Đức Phật dạy:

"Này chư Tỳ khưu, có một pháp hành mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sanh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp - sắc pháp, để diệt tận tham ái, sân hận, si mê; để làm vắng lặng mọi phiền não; để phát sanh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã; để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn.

Pháp hành ấy là gì?

Pháp hành ấy chính là Buddhānussati = pháp hành tùy niệm Ân Đức Phật.

Này chư Tỳ khưu, pháp hành tùy niệm Ân Đức Phật, mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sanh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp; để diệt tận tham ái, sân hận, si mê; để làm vắng lặng mọi phiền não; để phát sanh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã; để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn".-- (Anguttaranikāya, phần Ekadhammapàli)

Qua lời giáo huấn của Đức Phật trên, thì đề mục tùy niệm Ân Đức Phật không chỉ là đề mục thiền định, mà còn làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ nữa.

Đề mục tùy niệm Ân Đức Phật có hai giai đoạn:

- Giai đoạn đầu: đề mục tùy niệm Ân Đức Phật thuộc thiền định hành giả tiến hành tùy niệm Ân Đức Phật có khả năng dẫn đến sự chứng đạt đến cận định (phương pháp đã trình bày ở phần trước).

- Giai đoạn sau: Sau khi tiến hành đề mục tùy niệm Ân Đức Phật chứng đạt đến cận định, hành giả cần phải thoát ra khỏi đề mục niệm Ân Đức Phật, dùng tâm cận định của đề mục niệm Ân Đức Phật làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ.

Tiến hành thiền tuệ

Hành giả tiến hành thiền tuệ cần phải có danh pháp, sắc pháp hoặc thân, thọ, tâm, pháp thuộc Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma) làm đối tuợng của thiền tuệ.

Như vậy, đề mục tùy niệm Ân Đức Phật làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ như thế nào?

Dựa theo Chú giải Chi bộ kinh, phần pháp một chi, giải về đề mục niệm Ân Đức Phật ấy. Theo chân nghĩa pháp, ai niệm Ân Đức Phật?

- Đàn ông niệm Ân Đức Phật có phải không? Cũng như vậy đàn bà, chư thiên, phạm thiên niệm Ân Đức Phật có phải không?

- Đúng theo chân nghĩa pháp, không có một ai niệm Ân Đức Phật; mà chỉ có đại thiện tâm hợp với trí niệm Ân Đức Phật mà thôi.

Bây giờ, hành giả tiến hành thiền tuệ có đại thiện tâm hợp với trí làm phận sự cận định tâm thuộc danh pháp, làm đối tượng thiền tuệ (trong phần niệm tâm của pháp hành Tứ niệm xứ)sắc pháp đó là sắc ý căn(hadayavatthu) là nơi nương nhơ ø của đại thiện tâm hợp với trí ấy phát sanh. Như vậy, danh pháp liên quan với sắc pháp này làm đối tượng của thiền tuệ.

Trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp ấy, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp ấy dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn.

Hay một cách khác: hành giả tiến hành thiền tuệ có đại thiện tâm hợp với trí làm phận sự cận định tâm, làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đại thiện tâm hợp với trí ấy thuộc thức uẩn.

- Thọ tâm sở đồng sanh với đại thiện tâm ấy thuộc thọ uẩn.

- Tưởng tâm sở đồng sanh với đại thiện tâm ấy thuộc tưởng uẩn.

- Các tâm sở khác còn lại đồng sanh với đại thiện tâm ấy thuộc hành uẩn.

- Sắc ý căn (hadayavatthu) thuộc sắc uẩn là nơi nương nhờ của đại thiện tâm hợp với trí ấy phát sanh.

Ngũ uẩn này là đối tượng của thiền tuệ. (trong phần niệm pháp của pháp hành Tứ niệm xứ).

Trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự diệt của ngũ uẩn ấy, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của ngũ uẩn ấy, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn.

Như vậy, gọi là: Niệm Ân Đức Phật làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ.

Như Đức Phật dạy:

"Này chư Tỳ khưu, pháp hành tùy niệm Ân Đức Phật mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sanh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp này; để diệt tận tham ái, sân hận, si mê; để làm vắng lặng mọi phiền não; để phát sanh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã; để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn".

Quả báu đặc biệt niệm Ân Đức Phật

Hành giả tiến hành niệm Ân Đức Phật, trong kiếp hiện tại chưa chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả - Niết Bàn, hành giả sẽ được hưởng những quả báu đặc biệt ngay trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai như sau:

- Được phần đông chúng sinh kính trọng.
- Thiện tâm trong sạch thanh tịnh.
- Khi sắp chết, tâm bình tĩnh sáng suốt, không mê muội. Sau khi chết do thiện nghiệp này cho quả tái sanh làm người cao quý hoặc chư thiên cao quý.
- Tái sanh kiếp nào cũng thuộc hàng chúng sinh cao quý.
- Có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng mộ.
- Các bộ phận trong thân thể đều xinh đẹp đáng quý.
- Thân có mùi thơm.
- Miệng có mùi thơm tỏa ra.
- Có trí tuệ nhiều.
- Có trí tuệ sâu sắc.
- Có trí tuệ sắc bén.
- Có trí tuệ nhanh nhẹn.
- Có trí tuệ phong phú.
- Trí tuệ phi thường.
- Nói lời hay có lợi ích...
- Kiếp vị lai có duyên lành gặp Đức Phật, lắng nghe chánh pháp dễ dàng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn...

Đó là những quả báu phát sanh từ niệm Ân Đức Phật.

-ooOoo-

ĐOẠN KẾT

Đức Phật là một Đấng Từ Phụ chung của tất cả mọi người Phật tử là các bậc Xuất gia tu sĩ và các hàng tại gia cư sĩ.

Tất cả chúng ta đều hết lòng tôn kính Đức Phật, để tỏ lòng tôn kính, mỗi người Phật tử cúng dường Đức Phật bằng những phẩm vật quý giá tùy theo khả năng của mình.

Đức Phật dạy cúng dường có hai cách:

- Cúng dường bằng phẩm vật (amisapūjā) như: hương, hoa...

- Cúng dường bằng hành pháp (patipattipūjā): hành giới, hành định, hành tuệ...

Trong hai cách cúng dường này, Đức Phật tán dương, ca tụng cách cúng dường bằng hành pháp gọi là cao thượng nhất.

Đến khi Đức Phật gần tịch diệt Niết Bàn, Ngài dạy chỉ có hành pháp mới thật là cúng dường Đức Phật một cách cao quý nhất.

Như trong bộ Chú giải Pháp cú, tích Đại Đức Attadattha:

Khi Đức Phật truyền dạy cho chư Tỳ khưu được rõ, thời gian tịch diệt Niết Bàn của Ngài không còn lâu.

Chư Tỳ khưu, thường đến hầu hạ Đức Phật với lòng tôn kính yêu thương, riêng Đại Đức Attadattha nghĩ: "Đức Thế Tôn còn thời gian không lâu sẽ tịch diệt Niết Bàn, còn ta vẫn chưa diệt được tham ái, ta nên cố gắng tiến hành thiền tuệ, chứng đắc đến Arahān Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahān khi Đức Thế Tôn còn hiện tiền". Nghĩ vậy, Ngài ở nơi thanh vắng một mình để tiến hành thiền tuệ, có số Tỳ khưu chê trách Ngài không biết kính yêu Đức Phật. Đức Phật biết rõ, bảo một Tỳ khưu gọi Ngài đến.

Đức Phật bèn hỏi Ngài:

- Này con, con nghĩ thế nào mà hành động như vậy?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, con được nghe biết Đức Thế Tôn không còn bao lâu nữa sẽ tịch diệt Niết Bàn, con cố gắng tiến hành thiền tuệ để chứng đắc đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, trong khi Đức Thế Tôn còn hiện tiền.

Nghe vậy, Đức Thế Tôn bèn Sādhu! Sādhu! = Lành thay! Lành thay! Ngài dạy:

"Bhikkhave, yassa mayi sineho atthi, tena Attadatthena viya bhavitum vattati. Na hi gandhàdīhi pùjentā mam pūjenti, dhammā-nudhammapatipattiyā pana mam pūjenti, tasmā annenapi Attadatthasadiseneva bhavitabbam". (Bộ Dhammapadatthakathā, chuyện Attadatthatheravatthu).

(Này chư Tỳ khưu, Tỳ khưu nào có lòng kính yêu Như Lai, Tỳ khưu ấy nên noi gương như Tỳ khưu Attadattha. Thật vậy, những người cúng dường bằng hương hoa v.v... chưa phải là cúng dường Như Lai. Những người tiến hành theo pháp hành thiền tuệ chứng đắc siêu tam giới pháp, mới thật là cúng dường Như Lai. Vì vậy, những người khác nên thực hành giống như Tỳ khưu Attadattha).

Đến khi Đức Phật sắp tịch diệt Niết Bàn, chư thiên các cõi trời mang những đóa hoa trời, hương trời, âm thanh trời... đến cúng dường Đức Phật.

Khi ấy Đức Phật dạy Đại Đức Ànanda:

"Này Ànanda, sự cúng dường những phẩm vật từ cõi trời như thế ấy, chưa phải tỏ lòng tôn kính Như Lai, hay tôn trọng, hay kính yêu, hay cúng dường, hay lễ bái Như Lai.

Này Ànanda, Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ nào theo hành pháp hành thiền tuệ chứng đắc siêu tam giới pháp , cung kính thực hành nghiêm chỉnh theo Giới - Định - Tuệ, thực hành theo chánh pháp. người ấy mới thật tôn kính Như Lai, tôn trọng, kính yêu, cúng dường, lễ bái Như Lai một cách cao thượng.

Như vậy, này Ànanda, trong Phật giáo này, các con nên học tập rằng: "Chúng ta nên theo hành pháp hành thiền tuệ, chứng đắc siêu tam giới pháp, cung kính thực hành nghiêm chỉnh theo giới - định - tuệ, thực hành theo chánh pháp".(Bộ Dīghanikāya, phẩm Mahàvagga, Kinh Mahāparinibbānasutta.)

* * *

Đức Phật là đấng Từ Phụ của tất cả chúng sinh. Để tỏ lòng tôn kính Đức Phật, Đấng Từ Phụ, chúng con cố gắng tinh tấn thực hành theo lời giáo huấn của Ngài, để xứng đáng cúng dường đến Ngài; đồng thời đem lại cho chúng con sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc cao quý; vừa đóng góp vào việc duy trì, bảo tồn Phật giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian, hầu đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho tất cả chúng sinh nhất là chư thiên và nhân loại. 

Ciram titthatu saddhammo lokasmim
Ciram titthatu saddhammo Vietnamratthasmim.

Nguyện cầu chánh pháp được trường tồn trên thế gian.
Nguyện cầu chánh pháp được trường tồn trên Tổ quốc Việt Nam thân yêu.

Tỳ khưu Hộ Pháp

-- Hết --

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn